Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Marguerite Duras”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tiểu sử: Unicodifying
Dòng 21: Dòng 21:
Cha và mẹ của Marguerite Duras đều là giáo viên. Cũng có tài liệu ghi cha của bà, ông Henri Donnadieu là một viên chức. Cuộc hôn nhân này đều là cuộc hôn nhân lần thứ hai của họ. Hai người đều từng có một lần góa bụa. Hai ông bà đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương làm ăn, với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá giả nơi xứ thuộc địa. Họ đã gặp nhau chính trên mảnh đất này. Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite bảy tuổi rưỡi.
Cha và mẹ của Marguerite Duras đều là giáo viên. Cũng có tài liệu ghi cha của bà, ông Henri Donnadieu là một viên chức. Cuộc hôn nhân này đều là cuộc hôn nhân lần thứ hai của họ. Hai người đều từng có một lần góa bụa. Hai ông bà đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương làm ăn, với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá giả nơi xứ thuộc địa. Họ đã gặp nhau chính trên mảnh đất này. Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite bảy tuổi rưỡi.


CMẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trưng Vương ngày nay) ở [[sa Đéc|thị xã Sa Đéc]], [[đồng Tháp|tỉnh Đồng Tháp]]. Mẹ bà ở vậy nuôi ba người con trong cảnh khốn khó. Marguerite có người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối.
Còn mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trưng Vương ngày nay) ở [[sa Đéc|thị xã Sa Đéc]], [[đồng Tháp|tỉnh Đồng Tháp]]. Mẹ bà ở vậy nuôi ba người con trong cảnh khốn khó. Marguerite có người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối.


Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở [[Việt Nam]], những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Năm 18 tuổi Duras trở về [[Pháp]]. Sau khi học toán, luật và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ [[1935]] tới [[1941]].
Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở [[Việt Nam]], những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Năm 18 tuổi Duras trở về [[Pháp]]. Sau khi học toán, luật và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ [[1935]] tới [[1941]].

Phiên bản lúc 08:45, ngày 25 tháng 12 năm 2016

Marguerite Duras
Tập tin:Marguerite Duras.png
SinhMarguerite Donnadieu
(1914-04-04)4 tháng 4 năm 1914
Gia Định,  Việt Nam
Mất3 tháng 3 năm 1996(1996-03-03) (81 tuổi)
Paris,  Pháp
Học vịCollège Chasseloup-Laubat, Saigon
Nghề nghiệpNhà văn, nhà làm phim
Nổi tiếng vìNgười tình
Bạn đờiHuỳnh Thủy Lê

Marguerite Donnadieu (1914 - 1996) là nữ nhà vănđạo diễn người Pháp.

Tiểu sử

Bà sinh ra tại Gia Định, Sài Gòn nay là thành phố Hồ Chí Minh. Tên thật của Marguerite Duras là Margarite Donnadieu nhưng bà không thích họ Donnadieu của mình. Duras là tên một vùng đất ở miền Lot-et-Garonne, nơi cha bà ra đời. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Garonne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà.

Cha và mẹ của Marguerite Duras đều là giáo viên. Cũng có tài liệu ghi cha của bà, ông Henri Donnadieu là một viên chức. Cuộc hôn nhân này đều là cuộc hôn nhân lần thứ hai của họ. Hai người đều từng có một lần góa bụa. Hai ông bà đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương làm ăn, với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá giả nơi xứ thuộc địa. Họ đã gặp nhau chính trên mảnh đất này. Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite bảy tuổi rưỡi.

Còn mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trưng Vương ngày nay) ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Mẹ bà ở vậy nuôi ba người con trong cảnh khốn khó. Marguerite có người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối.

Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Việt Nam, những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Năm 18 tuổi Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luật và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ 1935 tới 1941.

Trường École De jeunes filles tức trường Tiểu học Trưng Vương tại trung tâm thị xã Sa Đéc ngày nay.

Đời tư

Năm 1939, Duras kết hôn với nhà thơ Robert Antelme. Họ có một con trai đã qua đời vào năm 1942. Cùng năm đó, Marguerite Duras làm quen với người tình sau này là Dionys Mascolo. Marguerite Duras và Robert Antelme từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Một lần đội của họ bị mai phục, Marguerite Duras trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của François Mitterrand nhưng Robert Antelme bị bắt và bị gửi tới một trại ngày 1 tháng 6 năm 1944. Năm 1945, mặc dù đã có ý muốn ly dị, nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi Antelme ra khỏi trại tập trung Dachau. Bà đã kể lại thời kỳ đó trong cuốn La Douleur. Họ ly dị vào năm 1946. Duras cũng từng gia nhập Đảng cộng sản Pháp nhưng bị khai trừ vào năm 1955.

Sự nghiệp

Duras được biết tới vào năm 1950 với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với Người tình (L'Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với điền chủ gốc Hoa giàu có Huỳnh Thủy Lê tại Sa Đéc. Cả hai bắt đầu gặp gỡ nhau trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước, khi bà và gia đình đến sống tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được dựng thành phim vào năm 1992.

Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India SongLes enfants. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng...

Những tác phẩm đầu của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã bị nhà văn bạn Raymond Queneau chỉ trích), nhưng kể từ Moderato Cantabile bà đã thử các lối viết mới, đặc biệt là cắt bỏ những đoạn văn dài để làm tăng phần quan trọng của những gì không được viết ra. Bà thường được xếp vào phong trào Tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, không phải để kể lại câu truyện mà để ám chỉ đến một truyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.

Những năm cuối đời, Marguerite Duras còn có một mối tình với Yann Andréa, một sinh viên trẻ say mê các tác phẩm của bà, kém Duras tới 38 tuổi.

Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996Paris, được chôn cất tại Nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già.

Tác phẩm

Văn học

  • Les Impudents, Nhà xuất bản Plon, 1943.
  • La Vie tranquille, Gallimard, 1944.
  • Un barrage contre le Pacifique, Gallimard, 1950.
  • Le Marin de Gilbaltar, Gallimard, 1950.
  • Les Petits chevaux de Tarquinia, Gallimard, 1953.
  • Des journées entières dans les arbres, Le Boa, Madame Dodin, Les Chantiers, Gallimard, 1954.
  • Le Square, Gallimard, 1955.
  • Moderato Cantabile, Les Éditions de Minuit, 1958.
  • Les Viaducs de la Seine et Oise, Gallimard, 1959.
  • Hiroshima mon amour, Gallimard, 1960.
  • L'après-midi de M. Andesmas, Gallimard, 1960.
  • Le Ravissement de Lol V. Stein, Gallimard, 1964.
  • Théâtre I: les Eaux et Forêts-le Square-La Musica, Gallimard, 1965.
  • Le Vice-consul, Gallimard, 1966.
  • L'Amante Anglaise, Gallimard, 1967.
  • Théâtre II: Suzanna Andler-Des journées entières dans les arbres-Yes, peut-être-Le Shaga-Un homme est venu me voir, Gallimard, 1968.
  • Détruire, dit-elle, Les Éditions de Minuit, 1969.
  • Abahn Sabana David, Gallimard, 1970.
  • L'Amour, Gallimard, 1971.
  • "Ah! Ernesto", Hatlin Quist, 1971.
  • India Song, Gallimard, 1973.
  • Nathalie Granger, tiếp theo La Femme du Gange, Gallimard, 1973.
  • Le Camion, tiếp theo Entretien avec Michelle Porte, Les Éditions de Minuit, 1977.
  • L'Eden Cinéma, Mercure de France, 1977.
  • Le Navire Night, tiếp theo Césarée, les Mains négatives, Aurélia Steiner, Mercure de France, 1979.
  • Vera Baxter ou les Plages de l'Atlantique, Albatros, 1980.
  • L'Homme assis dans le couloir, Les Éditions de Minuit, 1980.
  • L'Eté 80, Les Éditions de Minuit, 1980.
  • Les Yeux verts, trong les Cahiers du cinéma, n°312-313, tháng 6 1980 và lần xuất bản mới năm 1987.
  • Agatha, Les Éditions de Minuit, 1981.
  • Outside, Albin Michel, 1981.
  • L'Homme atlantique, Les Éditions de Minuit, 1982.
  • Savannah Bay, Les Éditions de Minuit, 1982, lần xuất bản thứ hai năm 1983 có viết thêm.
  • La Maladie de la mort, Les Éditions de Minuit, 1982.
  • Théâtre III: -La Bête dans la jungle, dựa theo Henry James, adaptation de James Lord và M. Duras; -Les Papiers d'Aspern, dựa theo H. James, adaptation de M. Duras và Robert Antelme; -La Danse de mort, dựa theo August Strindberg, adaptation de M. Duras, Gallimard, 1984.
  • L'Amant, Les Éditions de Minuit, 1984; giải Goncourt.
  • La Douleur, POL, 1985.
  • La Musica deuxième, Gallimard, 1985.
  • Les Yeux bleus Cheveux noirs, Les Éditions de Minuit, 1986.
  • La Pute de la côte normande, Les Éditions de Minuit, 1986.
  • La Vie matérielle, POL, 1987.
  • Emily L., Les Éditions de Minuit, 1987.
  • La Pluie d'été, POL, 1990.
  • L'Amant de la Chine du Nord, Gallimard, 1991.

Điện ảnh

Tham khảo