Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Marguerite Duras”
n →Tiểu sử |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
(Không hiển thị 43 phiên bản của 18 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{Thông tin nhân vật |
{{short description|French writer and film director}}{{Thông tin nhân vật |
||
| name = Marguerite Duras |
| name = Marguerite Duras |
||
| image = |
| image = Marguerite Duras 1993.jpg |
||
| image_size = |
| image_size = 230px |
||
| birth_name= Marguerite Donnadieu |
| birth_name = Marguerite Donnadieu |
||
| birth_date = {{Birth date|1914|4|4|df=y}} |
| birth_date = {{Birth date|1914|4|4|df=y}} |
||
| birth_place = [[Gia Định]], |
| birth_place = [[Gia Định]], [[Nam Kỳ]], [[Liên bang Đông Dương]] (nay thuộc [[Việt Nam]]) |
||
| death_date ={{Death date and age|1996|3|3|1914|4|4|df=y}} |
| death_date = {{Death date and age|1996|3|3|1914|4|4|df=y}} |
||
| death_place = [[Paris]], |
| death_place = [[Paris]], Pháp |
||
| education |
| education = [[Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh|Collège Chasseloup-Laubat, Saigon]] |
||
| occupation = [[Nhà văn]], nhà làm phim |
| occupation = [[Nhà văn]], [[nhà viết kịch]], [[quá trình làm phim|nhà làm phim]] |
||
| known_for = ''[[Người tình ( |
| known_for = ''[[Người tình (tiểu thuyết)|Người tình]]'' |
||
| partner = Huỳnh Thủy Lê |
| partner = {{plainlist| |
||
* Huỳnh Thủy Lê |
|||
* Robert Antelme |
|||
* Dionys Mascolo |
|||
* Yann Andréa |
|||
}} |
|||
| influenced = |
| influenced = |
||
| người hôn phối = |
|||
| nhiệm kỳ = |
|||
| tiền nhiệm = |
|||
| kế nhiệm = |
|||
| đảng phái = |
|||
| chữ ký = |
|||
| con cái = |
|||
| cha = |
|||
| mẹ = |
|||
| giải thưởng = |
|||
| website = |
|||
| cân nặng = |
|||
| tiêu đề = |
|||
| quốc tịch = Pháp |
|||
| chiều cao = |
|||
| quê quán = |
|||
| notable works = |
|||
| tổ chức = |
|||
| năm hoạt động = |
|||
| học vấn = |
|||
| dân tộc = |
|||
| tên khác = |
|||
| quốc gia = |
|||
| cư trú = |
|||
| an táng = |
|||
| tên gốc = |
|||
| ghi chú hình = |
|||
| cỡ chữ ký = |
|||
}} |
}} |
||
'''Marguerite Germaine Marie Donnadieu''' ({{IPA-fr|maʁɡ(ə)ʁit ʒɛʁmɛn maʁi dɔnadjø}}, 4 tháng 4 năm 1914 – 3 tháng 3 năm 1996), được biết với bút danh '''Marguerite Duras''' ({{IPA-fr|maʁɡ(ə)ʁit dyʁas|lang}}), là một tiểu thuyết gia, kịch tác gia, biên kịch, nhà viết tiểu luận và nhà làm phim thể nghiệm người Pháp. Kịch bản cho bộ phim ''[[Hiroshima mon amour]]'' (1959) của bà đã được nhận đề cử [[Giải Oscar]] cho [[Giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất|kịch bản gốc xuất sắc nhất]]. |
|||
'''Marguerite Donnadieu''' ([[1914]] - [[1996]]) là nữ [[nhà văn]] và [[đạo diễn]] người [[Pháp]]. |
|||
== Niên thiếu và giáo dục == |
|||
== Tiểu sử == |
|||
Duras sinh ra tại [[Gia Định]],<ref name="bnf2">{{chú thích web|url=https://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb119013498.public|title=Bnf: Notice de personne: Duras, Marguerite ((1914-1996)|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|language=fr|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|access-date =ngày 18 tháng 9 năm 2018}}</ref> [[Nam Kỳ]], [[Liên bang Đông Dương]] (nay thuộc [[Việt Nam]]) với tên khai sinh Margarite Donnadieu, là con gái duy nhất trong trong gia đình có cha mẹ đều là giáo viên, đã tới định cư ở vùng đất thuộc địa theo lời kêu gọi của chính quyền Pháp.<ref name="NYTObit">{{chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/1996/03/04/nyregion/marguerite-duras-81-author-who-explored-love-and-sex.html|title=Marguerite Duras, 81, Author Who Explored Love and Sex|last1=Riding|first1=Alan|newspaper=New York Times|access-date =ngày 14 tháng 4 năm 2017}}</ref> |
|||
Bà sinh ra tại [[Gia Định]], [[Sài Gòn]], [[Đông Dương]]. Tên thật của Marguerite Duras là Margarite Donnadieu nhưng bà không thích họ Donnadieu của mình. Duras là tên một vùng đất ở miền Lot-et-Garonne, nơi cha bà ra đời. Năm [[1943]], bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng [[Lot-et-Garonne]], nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. |
|||
Cha và mẹ bà là Henri và Marie Donnadieu, đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương sau khi mới lấy nhau. Cuộc hôn nhân này đều là lần thứ 2 của họ. Từ năm 1913 đến 1917, gia đình họ sống ở [[Sài Gòn]], sau đó chuyển đến [[Hà Nội]].<ref>[http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20150117/ba-hieu-truong-nguoi-phap-me-ao-dai/699948.html Bà hiệu trưởng người Pháp mê áo dài]</ref> Marguerite có người anh nghiện ngập nhiều lần lấy cắp tiền và người em trai thì quá yếu đuối. Cha bà là giáo sư toán, quay về Pháp năm 1918 rồi mất vì bệnh kiết lị. Mẹ bà làm giáo viên tiểu học với đồng lương khốn khó đã ở vậy nuôi 3 người con trong cảnh nghèo túng. Mẹ bà trải qua nhiều nhiệm sở [[Hà Nội]], [[Phnôm Pênh]], [[Vĩnh Long]] rồi sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles (nay là trường tiểu học Trưng Vương) ở [[Sa Đéc]], [[Đồng Tháp]]. |
|||
Cha và mẹ của Marguerite Duras đều là giáo viên. Cũng có tài liệu ghi cha của bà, ông Henri Donnadieu là một viên chức. Cuộc hôn nhân này đều là cuộc hôn nhân lần thứ hai của họ. Hai người đều từng có một lần góa bụa. Hai ông bà đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương làm ăn, với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá giả nơi xứ thuộc địa. Họ đã gặp nhau chính trên mảnh đất này. Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite bảy tuổi rưỡi. |
|||
Năm 1928, bà Donnadieu khánh kiệt vì đã dồn hết tiền để dành đổ vào miếng đất ở [[Campuchia]] thuê lại của chính quyền thuộc địa, một phần để xây bờ đê (nhiều lần) chắn biển tràn vào đất trồng trọt, phần khác để kiện tụng các viên chức thuộc địa đã lừa gạt bà.<ref>[http://nam-viet-voyage.com/marguerite-duras-memories-from-vietnam/ Marguerite Duras, memories from Vietnam]</ref><ref name="NYTObit2" /> Ký ức này đã truyền cảm hứng cho tác phẩm ''Bờ đê chắn biển'' (''Un barrage contre le Pacifique'') của bà. |
|||
CMẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trưng Vương ngày nay) ở [[sa Đéc|thị xã Sa Đéc]], [[đồng Tháp|tỉnh Đồng Tháp]]. Mẹ bà ở vậy nuôi ba người con trong cảnh khốn khó. Marguerite có người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. |
|||
Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite 7 tuổi rưỡi. Sau này Duras kể lại rằng cuộc sống của gia đình bà giáo không hạnh phúc, gọi đúng phải là bi kịch. Dù không phải đói, nhưng rất khổ, có lúc họ phải ăn cả đồ lòng cò, vạc, cá sấu. |
|||
Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở [[Việt Nam]], những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Năm 18 tuổi Duras trở về [[Pháp]]. Sau khi học toán, luật và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ [[1935]] tới [[1941]]. |
|||
Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Việt Nam, những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Ở tuổi 17, Duras trở về Pháp, quê gốc của cha mẹ, và bắt đầu học lấy bằng toán học, nhưng sớm bỏ ngang để tập trung vào [[khoa học chính trị]], sau đó là luật.<ref name="NYTObit3" /> Sau khi hoàn thành việc học, đến năm 1941, bà làm việc cho chính phủ Pháp ở Bộ Thuộc địa;<ref name="NYTObit3" /> trong những năm 1930, bà cũng đổi tên thành Marguerite Duras, theo tên một làng ở vùng [[Lot-et-Garonne]], nơi có ngôi nhà của cha mẹ. Năm 1939, bà cưới nhà văn [[Robert Antelme]].<ref name="NYTObit3" /> |
|||
[[Tập tin:Trường Tiểu học Trưng Vương.jpg|nhỏ|Trường École De jeunes filles tức trường Tiểu học Trưng Vương tại trung tâm thị xã [[Sa Đéc]] ngày nay.]] |
|||
Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, từ 1942 tới 1944, Duras làm việc cho [[chính phủ Vichy]] trong một văn phòng phân bổ hạn ngạch giấy cho các nhà xuất bản và trong quá trình vận hành một hệ thống kiểm duyệt sách ''de facto''. Bà cũng trở thành một thành viên tích cực của [[Đảng Cộng sản Pháp]] (PCF)<ref name="NYTObit3" /> và là thành viên của phong trào [[Kháng chiến Pháp]] với tư cách là thành viên của một nhóm nhỏ bao gồm cả [[François Mitterrand]], sau này trở thành Tổng thống Pháp và vẫn là bạn suốt đời của Duras.<ref name="NYTObit3" /> Người chồng của bà, [[Robert Antelme|Antelme]], bị bắt và bị gửi tới [[trại tập trung Buchenwald]] vào năm 1944<ref name="deport">{{chú thích web|url=http://www.bddm.org/liv/details.php?id=I.265.#ANTELME|title=Transport parti de Compiègne le 17 août 1944 (I.265.)|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|language=fr|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|access-date =31 July 2018}}</ref> vì dính líu tới phong trào Kháng chiến, và gần như không thể sống sót khi rời khỏi [[trại tập trung Dachau]] (cân nặng khi ông được phóng thích, theo Duras, chỉ là 38 kg). Năm [[1945]], mặc dù đã có ý muốn [[ly hôn|ly dị]], nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi ông rời khỏi trại tập trung, và 2 ông bà chia tay ngay sau khi ông hồi phục.[[Tập tin:Trường Tiểu học Trưng Vương.jpg|nhỏ|Trường École De jeunes filles tức trường Tiểu học Trưng Vương tại trung tâm [[Sa Đéc]] ngày nay.]] |
|||
⚫ | |||
⚫ | Năm [[1939]], Duras kết hôn với [[nhà thơ]] Robert Antelme. Họ có một con trai đã qua đời vào năm [[1942]]. Cùng năm đó, Marguerite Duras làm quen với người tình sau này là Dionys Mascolo. Marguerite Duras và Robert Antelme từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Một lần đội của họ bị mai phục, Marguerite Duras trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của [[François Mitterrand]] nhưng Robert Antelme bị bắt và bị gửi tới một trại ngày [[1 tháng 6]] năm [[1944]]. Năm [[1945]], mặc dù đã có ý muốn [[ly hôn|ly dị]], nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi Antelme ra khỏi [[trại tập trung Dachau]]. Bà đã kể lại thời kỳ đó trong cuốn ''La Douleur''. Họ ly dị vào năm [[1946]]. Duras cũng từng gia nhập [[Đảng cộng sản Pháp]] nhưng bị khai trừ vào năm [[1955]]. |
||
==Sự nghiệp== |
==Sự nghiệp== |
||
Duras được biết tới vào năm [[1950]] với cuốn [[tự truyện]] ''Un barrage contre le Pacifique''. Những tác phẩm sau của bà đã góp phần làm mới cho thể loại [[tiểu thuyết]]. Năm [[1984]], Duras đoạt [[giải Goncourt|giải thưởng Goncourt]] với ''[[Người tình (tiểu thuyết)|Người tình]]'' (''L'Amant''), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với điền chủ gốc Hoa giàu có Huỳnh Thủy Lê tại [[Sa Đéc]]. Cả hai bắt đầu gặp gỡ nhau trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước, khi bà và gia đình đến sống tại [[Sa Đéc]]. ''Người tình'' là một thành công lớn, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được dựng thành phim vào năm [[1992]]. |
Duras được biết tới vào năm [[1950]] với cuốn [[tự truyện]] ''Un barrage contre le Pacifique''. Những tác phẩm sau của bà đã góp phần làm mới cho thể loại [[tiểu thuyết]]. Năm [[1984]], Duras đoạt [[giải Goncourt|giải thưởng Goncourt]] với ''[[Người tình (tiểu thuyết)|Người tình]]'' (''L'Amant''), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với điền chủ gốc Hoa giàu có Huỳnh Thủy Lê tại [[Sa Đéc]]. Cả hai bắt đầu gặp gỡ nhau trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước,{{fact}} khi bà và gia đình đến sống tại [[Sa Đéc]]. ''Người tình'' là một thành công lớn, với giải thưởng Goncourt năm 1984, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được dựng thành phim vào năm [[1992]]. |
||
Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có ''India Song'' và ''Les enfants''. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng... |
Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có ''India Song'' và ''Les enfants''. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng... |
||
Những tác phẩm đầu của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã bị nhà văn bạn [[Raymond Queneau]] chỉ trích), nhưng kể từ ''Moderato Cantabile'' bà đã thử các lối viết mới, đặc biệt là cắt bỏ những đoạn văn dài để làm tăng phần quan trọng của những gì không được viết ra |
Những tác phẩm đầu của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã bị nhà văn bạn [[Raymond Queneau]] chỉ trích), nhưng kể từ ''Moderato Cantabile'' bà đã thử các lối viết mới, đặc biệt là cắt bỏ những đoạn văn dài để làm tăng phần quan trọng của những gì không được viết ra. |
||
Bà thường được xếp vào [[tiểu thuyết mới|phong trào Tiểu thuyết mới]] trong [[văn học Pháp]]. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, không phải để kể lại câu truyện mà để ám chỉ đến một truyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao [[Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu]]. |
|||
Những năm cuối đời, Marguerite Duras còn có một mối tình với Yann Andréa, một sinh viên trẻ say mê các tác phẩm của bà, kém Duras tới 38 tuổi. |
|||
⚫ | |||
⚫ | Năm [[1939]], Duras kết hôn với [[nhà thơ]] Robert Antelme. Họ có một con trai đã qua đời vào năm [[1942]]. Cùng năm đó, Marguerite Duras làm quen với người tình sau này là Dionys Mascolo. Marguerite Duras và Robert Antelme từng tham gia kháng chiến [[chống phát xít]] Đức. Một lần đội của họ bị mai phục, Marguerite Duras trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của [[François Mitterrand]] nhưng Robert Antelme bị bắt và bị gửi tới một trại ngày [[1 tháng 6]] năm [[1944]]. Năm [[1945]], mặc dù đã có ý muốn [[ly hôn|ly dị]], nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi Antelme ra khỏi [[trại tập trung Dachau]]. Bà đã kể lại thời kỳ đó trong cuốn ''La Douleur''. Họ ly dị vào năm [[1946]]. Duras cũng từng gia nhập [[Đảng cộng sản Pháp]] nhưng bị khai trừ vào năm [[1955]]. |
||
==Qua đời== |
|||
Những năm cuối đời, Marguerite Duras còn có một mối tình với Yann Andréa, một sinh viên trẻ say mê các tác phẩm của bà, kém Duras tới 38 tuổi. Andréa thuộc giới đồng tính luyến ái và nhận làm người bạn đường suốt quãng đời còn lại của bà. Mặc dù đã bị liệt cánh tay mặt và đi lại khó khăn, bệnh gan thận vì nghiện rượu nhưng Duras vẫn sáng tác bằng cách đọc cho Andréa chép rồi đánh máy lại. Chính Duras nhìn nhận cuốn "M.D." (1983) Andréa viết về bà đã gợi hứng cho bà viết "L’Amant". |
|||
Marguerite Duras mất ngày [[3 tháng 3]] năm [[1996]] ở [[Paris]], được chôn cất tại [[Nghĩa trang Montparnasse]]. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. |
Marguerite Duras mất ngày [[3 tháng 3]] năm [[1996]] ở [[Paris]], được chôn cất tại [[Nghĩa trang Montparnasse]]. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. |
||
Dòng 62: | Dòng 100: | ||
* ''Détruire, dit-elle'', Les Éditions de Minuit, 1969. |
* ''Détruire, dit-elle'', Les Éditions de Minuit, 1969. |
||
* ''Abahn Sabana David'', Gallimard, 1970. |
* ''Abahn Sabana David'', Gallimard, 1970. |
||
* ''L'Amour'', Gallimard, 1971. |
* ''L'Amour'' ([[Người tình (tiểu thuyết)|Người tình]]), Gallimard, 1971. |
||
* ''"Ah! Ernesto"'', Hatlin Quist, 1971. |
* ''"Ah! Ernesto"'', Hatlin Quist, 1971. |
||
* ''India Song'', Gallimard, 1973. |
* ''India Song'', Gallimard, 1973. |
||
Dòng 72: | Dòng 110: | ||
* ''L'Homme assis dans le couloir'', Les Éditions de Minuit, 1980. |
* ''L'Homme assis dans le couloir'', Les Éditions de Minuit, 1980. |
||
* ''L'Eté 80'', Les Éditions de Minuit, 1980. |
* ''L'Eté 80'', Les Éditions de Minuit, 1980. |
||
* ''Les Yeux verts'', trong ''[[les Cahiers du cinéma]]'', n°312-313, tháng 6 1980 và lần xuất bản mới năm 1987. |
* ''Les Yeux verts'', trong ''[[les Cahiers du cinéma]]'', n°312-313, tháng 6 năm 1980 và lần xuất bản mới năm 1987. |
||
* ''[[Agatha]]'', Les Éditions de Minuit, 1981. |
* ''[[Agatha]]'' ([[Người tình Hoa Bắc]]), Les Éditions de Minuit, 1981. |
||
* ''[[Outside]]'', Albin Michel, 1981. |
* ''[[Outside]]'', Albin Michel, 1981. |
||
* ''L'Homme atlantique'', Les Éditions de Minuit, 1982. |
* ''L'Homme atlantique'', Les Éditions de Minuit, 1982. |
||
Dòng 79: | Dòng 117: | ||
* ''La Maladie de la mort'', Les Éditions de Minuit, 1982. |
* ''La Maladie de la mort'', Les Éditions de Minuit, 1982. |
||
* Théâtre III: -''La Bête dans la jungle'', dựa theo [[Henry James]], adaptation de [[James Lord]] và M. Duras; -''Les Papiers d'Aspern'', dựa theo H. James, adaptation de M. Duras và [[Robert Antelme]]; -''La Danse de mort'', dựa theo [[August Strindberg]], adaptation de M. Duras, Gallimard, 1984. |
* Théâtre III: -''La Bête dans la jungle'', dựa theo [[Henry James]], adaptation de [[James Lord]] và M. Duras; -''Les Papiers d'Aspern'', dựa theo H. James, adaptation de M. Duras và [[Robert Antelme]]; -''La Danse de mort'', dựa theo [[August Strindberg]], adaptation de M. Duras, Gallimard, 1984. |
||
* ''[[Người tình ( |
* ''[[Người tình (tiểu thuyết)|L'Amant]]'', Les Éditions de Minuit, 1984; giải Goncourt. |
||
* ''[[La Douleur]]'', POL, 1985. |
* ''[[La Douleur]]'', POL, 1985. |
||
* ''La Musica deuxième'', Gallimard, 1985. |
* ''La Musica deuxième'', Gallimard, 1985. |
||
Dòng 109: | Dòng 147: | ||
* [[1982]]: ''[[Il Dialogo di Roma]]'' (phim tài liệu) |
* [[1982]]: ''[[Il Dialogo di Roma]]'' (phim tài liệu) |
||
* [[1984]]: ''[[Les Enfants]]'' |
* [[1984]]: ''[[Les Enfants]]'' |
||
{{Thời gian sống|sinh=1914|mất=1996|tên=Duras, Marguerite}} |
|||
==Tham khảo== |
==Tham khảo== |
||
{{Thể loại Commons|Marguerite Duras}} |
|||
{{tham khảo}} |
{{tham khảo}} |
||
* {{IMDb name}} |
|||
{{Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu}} |
|||
{{Kiểm soát tính nhất quán}} |
|||
{{DEFAULTSORT:Duras, Marguerite}} |
{{DEFAULTSORT:Duras, Marguerite}} |
||
⚫ | |||
[[Thể loại:Mất năm 1996]] |
|||
[[Thể loại:Nhà văn Pháp]] |
[[Thể loại:Nhà văn Pháp]] |
||
[[Thể loại:Nhà làm phim Pháp]] |
[[Thể loại:Nhà làm phim Pháp]] |
||
Dòng 122: | Dòng 164: | ||
[[Thể loại:Nhà biên kịch phim Pháp]] |
[[Thể loại:Nhà biên kịch phim Pháp]] |
||
[[Thể loại:Nữ biên kịch gia]] |
[[Thể loại:Nữ biên kịch gia]] |
||
[[Thể loại: |
[[Thể loại:Đạo diễn điện ảnh Pháp]] |
||
⚫ | |||
[[Thể loại:Đạo diễn phim người Pháp]] |
|||
[[Thể loại:Người viết hồi ký nữ]] |
[[Thể loại:Người viết hồi ký nữ]] |
||
[[Thể loại:Nhà soạn kịch thế kỷ 20]] |
[[Thể loại:Nhà soạn kịch thế kỷ 20]] |
||
[[Thể loại:Nữ nhà văn thế kỷ 20]] |
[[Thể loại:Nữ nhà văn thế kỷ 20]] |
||
[[Thể loại:Chết vì ung thư thực quản]] |
[[Thể loại:Chết vì ung thư thực quản]] |
||
[[Thể loại:Người Sài Gòn]] |
Bản mới nhất lúc 11:53, ngày 24 tháng 4 năm 2024
Marguerite Duras | |
---|---|
Sinh | Marguerite Donnadieu 4 tháng 4 năm 1914 Gia Định, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương (nay thuộc Việt Nam) |
Mất | 3 tháng 3 năm 1996 Paris, Pháp | (81 tuổi)
Quốc tịch | Pháp |
Học vị | Collège Chasseloup-Laubat, Saigon |
Nghề nghiệp | Nhà văn, nhà viết kịch, nhà làm phim |
Nổi tiếng vì | Người tình |
Bạn đời |
|
Marguerite Germaine Marie Donnadieu (phát âm tiếng Pháp: [maʁɡ(ə)ʁit ʒɛʁmɛn maʁi dɔnadjø], 4 tháng 4 năm 1914 – 3 tháng 3 năm 1996), được biết với bút danh Marguerite Duras (tiếng Pháp: [maʁɡ(ə)ʁit dyʁas]), là một tiểu thuyết gia, kịch tác gia, biên kịch, nhà viết tiểu luận và nhà làm phim thể nghiệm người Pháp. Kịch bản cho bộ phim Hiroshima mon amour (1959) của bà đã được nhận đề cử Giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất.
Niên thiếu và giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Duras sinh ra tại Gia Định,[1] Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương (nay thuộc Việt Nam) với tên khai sinh Margarite Donnadieu, là con gái duy nhất trong trong gia đình có cha mẹ đều là giáo viên, đã tới định cư ở vùng đất thuộc địa theo lời kêu gọi của chính quyền Pháp.[2]
Cha và mẹ bà là Henri và Marie Donnadieu, đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương sau khi mới lấy nhau. Cuộc hôn nhân này đều là lần thứ 2 của họ. Từ năm 1913 đến 1917, gia đình họ sống ở Sài Gòn, sau đó chuyển đến Hà Nội.[3] Marguerite có người anh nghiện ngập nhiều lần lấy cắp tiền và người em trai thì quá yếu đuối. Cha bà là giáo sư toán, quay về Pháp năm 1918 rồi mất vì bệnh kiết lị. Mẹ bà làm giáo viên tiểu học với đồng lương khốn khó đã ở vậy nuôi 3 người con trong cảnh nghèo túng. Mẹ bà trải qua nhiều nhiệm sở Hà Nội, Phnôm Pênh, Vĩnh Long rồi sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles (nay là trường tiểu học Trưng Vương) ở Sa Đéc, Đồng Tháp.
Năm 1928, bà Donnadieu khánh kiệt vì đã dồn hết tiền để dành đổ vào miếng đất ở Campuchia thuê lại của chính quyền thuộc địa, một phần để xây bờ đê (nhiều lần) chắn biển tràn vào đất trồng trọt, phần khác để kiện tụng các viên chức thuộc địa đã lừa gạt bà.[4][5] Ký ức này đã truyền cảm hứng cho tác phẩm Bờ đê chắn biển (Un barrage contre le Pacifique) của bà.
Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite 7 tuổi rưỡi. Sau này Duras kể lại rằng cuộc sống của gia đình bà giáo không hạnh phúc, gọi đúng phải là bi kịch. Dù không phải đói, nhưng rất khổ, có lúc họ phải ăn cả đồ lòng cò, vạc, cá sấu.
Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Việt Nam, những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Ở tuổi 17, Duras trở về Pháp, quê gốc của cha mẹ, và bắt đầu học lấy bằng toán học, nhưng sớm bỏ ngang để tập trung vào khoa học chính trị, sau đó là luật.[6] Sau khi hoàn thành việc học, đến năm 1941, bà làm việc cho chính phủ Pháp ở Bộ Thuộc địa;[6] trong những năm 1930, bà cũng đổi tên thành Marguerite Duras, theo tên một làng ở vùng Lot-et-Garonne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ. Năm 1939, bà cưới nhà văn Robert Antelme.[6]
Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, từ 1942 tới 1944, Duras làm việc cho chính phủ Vichy trong một văn phòng phân bổ hạn ngạch giấy cho các nhà xuất bản và trong quá trình vận hành một hệ thống kiểm duyệt sách de facto. Bà cũng trở thành một thành viên tích cực của Đảng Cộng sản Pháp (PCF)[6] và là thành viên của phong trào Kháng chiến Pháp với tư cách là thành viên của một nhóm nhỏ bao gồm cả François Mitterrand, sau này trở thành Tổng thống Pháp và vẫn là bạn suốt đời của Duras.[6] Người chồng của bà, Antelme, bị bắt và bị gửi tới trại tập trung Buchenwald vào năm 1944[7] vì dính líu tới phong trào Kháng chiến, và gần như không thể sống sót khi rời khỏi trại tập trung Dachau (cân nặng khi ông được phóng thích, theo Duras, chỉ là 38 kg). Năm 1945, mặc dù đã có ý muốn ly dị, nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi ông rời khỏi trại tập trung, và 2 ông bà chia tay ngay sau khi ông hồi phục.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Duras được biết tới vào năm 1950 với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với Người tình (L'Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với điền chủ gốc Hoa giàu có Huỳnh Thủy Lê tại Sa Đéc. Cả hai bắt đầu gặp gỡ nhau trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước,[cần dẫn nguồn] khi bà và gia đình đến sống tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, với giải thưởng Goncourt năm 1984, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được dựng thành phim vào năm 1992.
Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les enfants. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng...
Những tác phẩm đầu của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã bị nhà văn bạn Raymond Queneau chỉ trích), nhưng kể từ Moderato Cantabile bà đã thử các lối viết mới, đặc biệt là cắt bỏ những đoạn văn dài để làm tăng phần quan trọng của những gì không được viết ra.
Bà thường được xếp vào phong trào Tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, không phải để kể lại câu truyện mà để ám chỉ đến một truyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu.
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1939, Duras kết hôn với nhà thơ Robert Antelme. Họ có một con trai đã qua đời vào năm 1942. Cùng năm đó, Marguerite Duras làm quen với người tình sau này là Dionys Mascolo. Marguerite Duras và Robert Antelme từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Một lần đội của họ bị mai phục, Marguerite Duras trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của François Mitterrand nhưng Robert Antelme bị bắt và bị gửi tới một trại ngày 1 tháng 6 năm 1944. Năm 1945, mặc dù đã có ý muốn ly dị, nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi Antelme ra khỏi trại tập trung Dachau. Bà đã kể lại thời kỳ đó trong cuốn La Douleur. Họ ly dị vào năm 1946. Duras cũng từng gia nhập Đảng cộng sản Pháp nhưng bị khai trừ vào năm 1955.
Qua đời
[sửa | sửa mã nguồn]Những năm cuối đời, Marguerite Duras còn có một mối tình với Yann Andréa, một sinh viên trẻ say mê các tác phẩm của bà, kém Duras tới 38 tuổi. Andréa thuộc giới đồng tính luyến ái và nhận làm người bạn đường suốt quãng đời còn lại của bà. Mặc dù đã bị liệt cánh tay mặt và đi lại khó khăn, bệnh gan thận vì nghiện rượu nhưng Duras vẫn sáng tác bằng cách đọc cho Andréa chép rồi đánh máy lại. Chính Duras nhìn nhận cuốn "M.D." (1983) Andréa viết về bà đã gợi hứng cho bà viết "L’Amant".
Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở Paris, được chôn cất tại Nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già.
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Văn học
[sửa | sửa mã nguồn]- Les Impudents, Nhà xuất bản Plon, 1943.
- La Vie tranquille, Gallimard, 1944.
- Un barrage contre le Pacifique, Gallimard, 1950.
- Le Marin de Gilbaltar, Gallimard, 1950.
- Les Petits chevaux de Tarquinia, Gallimard, 1953.
- Des journées entières dans les arbres, Le Boa, Madame Dodin, Les Chantiers, Gallimard, 1954.
- Le Square, Gallimard, 1955.
- Moderato Cantabile, Les Éditions de Minuit, 1958.
- Les Viaducs de la Seine et Oise, Gallimard, 1959.
- Hiroshima mon amour, Gallimard, 1960.
- L'après-midi de M. Andesmas, Gallimard, 1960.
- Le Ravissement de Lol V. Stein, Gallimard, 1964.
- Théâtre I: les Eaux et Forêts-le Square-La Musica, Gallimard, 1965.
- Le Vice-consul, Gallimard, 1966.
- L'Amante Anglaise, Gallimard, 1967.
- Théâtre II: Suzanna Andler-Des journées entières dans les arbres-Yes, peut-être-Le Shaga-Un homme est venu me voir, Gallimard, 1968.
- Détruire, dit-elle, Les Éditions de Minuit, 1969.
- Abahn Sabana David, Gallimard, 1970.
- L'Amour (Người tình), Gallimard, 1971.
- "Ah! Ernesto", Hatlin Quist, 1971.
- India Song, Gallimard, 1973.
- Nathalie Granger, tiếp theo La Femme du Gange, Gallimard, 1973.
- Le Camion, tiếp theo Entretien avec Michelle Porte, Les Éditions de Minuit, 1977.
- L'Eden Cinéma, Mercure de France, 1977.
- Le Navire Night, tiếp theo Césarée, les Mains négatives, Aurélia Steiner, Mercure de France, 1979.
- Vera Baxter ou les Plages de l'Atlantique, Albatros, 1980.
- L'Homme assis dans le couloir, Les Éditions de Minuit, 1980.
- L'Eté 80, Les Éditions de Minuit, 1980.
- Les Yeux verts, trong les Cahiers du cinéma, n°312-313, tháng 6 năm 1980 và lần xuất bản mới năm 1987.
- Agatha (Người tình Hoa Bắc), Les Éditions de Minuit, 1981.
- Outside, Albin Michel, 1981.
- L'Homme atlantique, Les Éditions de Minuit, 1982.
- Savannah Bay, Les Éditions de Minuit, 1982, lần xuất bản thứ hai năm 1983 có viết thêm.
- La Maladie de la mort, Les Éditions de Minuit, 1982.
- Théâtre III: -La Bête dans la jungle, dựa theo Henry James, adaptation de James Lord và M. Duras; -Les Papiers d'Aspern, dựa theo H. James, adaptation de M. Duras và Robert Antelme; -La Danse de mort, dựa theo August Strindberg, adaptation de M. Duras, Gallimard, 1984.
- L'Amant, Les Éditions de Minuit, 1984; giải Goncourt.
- La Douleur, POL, 1985.
- La Musica deuxième, Gallimard, 1985.
- Les Yeux bleus Cheveux noirs, Les Éditions de Minuit, 1986.
- La Pute de la côte normande, Les Éditions de Minuit, 1986.
- La Vie matérielle, POL, 1987.
- Emily L., Les Éditions de Minuit, 1987.
- La Pluie d'été, POL, 1990.
- L'Amant de la Chine du Nord, Gallimard, 1991.
Điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]- 1967: La Musica
- 1969: Détruire, dit-elle
- 1972: Jaune le soleil
- 1972: Nathalie Granger
- 1974: La Femme du Gange
- 1975: India Song
- 1976: Des journées entières dans les arbres
- 1976: Son nom de Venise dans Calcutta désert
- 1977: Le Camion
- 1977: Les Plages de l'Atlantique (Baxter, Vera Baxter)
- 1978: Les Mains négatives (phim ngắn)
- 1978: Cesarée
- 1979: Aurélia Steiner (Vancouver) (phim ngắn)
- 1979: Aurelia Steiner (Melbourne) (phim ngắn)
- 1979: Le Navire Night
- 1981: Agatha et les lectures illimitées
- 1981: L'Homme atlantique
- 1982: Il Dialogo di Roma (phim tài liệu)
- 1984: Les Enfants
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Bnf: Notice de personne: Duras, Marguerite ((1914-1996)” (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2018.
- ^ Riding, Alan. “Marguerite Duras, 81, Author Who Explored Love and Sex”. New York Times. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2017.
- ^ Bà hiệu trưởng người Pháp mê áo dài
- ^ Marguerite Duras, memories from Vietnam
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênNYTObit2
- ^ a b c d e Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênNYTObit3
- ^ “Transport parti de Compiègne le 17 août 1944 (I.265.)” (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
- Marguerite Duras trên IMDb
- Hộp điều hướng giải thưởng văn học
- Sinh năm 1914
- Mất năm 1996
- Nhà văn Pháp
- Nhà làm phim Pháp
- Người đoạt giải Goncourt
- Người Thành phố Hồ Chí Minh
- Nhà biên kịch phim Pháp
- Nữ biên kịch gia
- Đạo diễn điện ảnh Pháp
- Người viết hồi ký nữ
- Nhà soạn kịch thế kỷ 20
- Nữ nhà văn thế kỷ 20
- Chết vì ung thư thực quản
- Người Sài Gòn