Bangladesh
Cộng hòa Nhân dân Bangladesh
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Tiêu ngữ: জাতীয়তাবাদ, ধর্মনিরপেক্ষতা, সমাজতন্ত্র ও গণতন্ত্র (tiếng Bengal) (tiếng Việt: "Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa xã hội và dân chủ") | |
Quốc ca: "Amar Sonar Bangla" আমার সোনার বাংলা (tiếng Việt: "Bengal quý giá của ta") Diễu hành: "Notuner Gaan"[1] নতুনের গান(tiếng Việt: "Bài hát tuổi trẻ") | |
Dấu triện chính phủ | |
Vị trí của Bangladesh (xanh) trên thế giới | |
Vị trí Bangladesh (đỏ) trong khu vực | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Dhakaa 23°42′B 90°21′Đ / 23,7°B 90,35°Đ |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Bengal |
Sắc tộc (2011) | 98% Người Bengal 2% dân tộc thiểu số |
Tôn giáo chính | 88% Hồi giáo 5,5% Ấn Độ giáo 0,6% Phật giáo 0,2 % Cơ Đốc giáo |
Tên dân cư | |
Chính trị | |
Chính phủ | Đơn nhất cộng hòa nghị viện |
Mohammed Shahabuddin | |
Muhammad Yunus (Quyền) | |
Lập pháp | Jatiya Sangsad |
Lịch sử | |
Độc lập | |
• Phân chia Bengal và kết thúc Ấn Độ thuộc Anh | 14–15 tháng 8 năm 1947 |
• Tuyên bố độc lập từ Pakistan | 26 tháng 3 năm 1971 |
• Công nhận | 16 tháng 12 năm 1971 |
• Hiến pháp | 4 tháng 11 năm 1972 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 147,570[2] km2[3] (hạng 91) 56,980 mi2 |
• Mặt nước (%) | 6.4 |
Dân số | |
• Ước lượng 2024 | 173.562.364 (hạng 8) |
• Mật độ | 1176/km2 (hạng 10) 3.047/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2017 |
• Tổng số | 686,598 tỉ USD[4] (hạng 33) |
4.207 USD[4] (hạng 139) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2017 |
• Tổng số | 248,853 tỉ USD[4] (hạng 45) |
• Bình quân đầu người | 1.524 USD[4] (hạng 148) |
Đơn vị tiền tệ | Taka Bangladesh (৳) (BDT) |
Thông tin khác | |
Gini? (2011) | 32,1 trung bình |
HDI? (2022) | 0,670 trung bình · hạng 129 |
Múi giờ | UTC+6 (BDT) |
Giao thông bên | trái |
Mã điện thoại | +880 |
Mã ISO 3166 | BD |
Tên miền Internet | .bd |
Trang web bangladesh |
Bangladesh (tiếng Bengal: বাংলাদেশ Bāṃlādēśa, phát âm: [ˈbaŋlad̪eʃ] ⓘ, nghĩa là "Đất nước Bengal", phiên âm tiếng Việt: Băng-la-đét), tên chính thức: Cộng hòa Nhân dân Bangladesh (tiếng Bengal: গণপ্রজাতন্ত্রী বাংলাদেশ), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở vùng Nam Á. Bangladesh giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông nên gần như bị bao vây trừ một đoạn biên giới giáp với Myanmar ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Cùng với tiểu bang Tây Bengal của Ấn Độ, quốc gia này là một thành phần của khu vực chung của dân tộc-ngôn ngữ Bengal.
Biên giới của Bangladesh được xác định theo sự Phân chia Ấn Độ năm 1947, khi nó trở thành nửa phía đông của Pakistan (Đông Pakistan), chia cách 1.600 km (1.000 dặm) với nửa phía tây. Dù cùng có tôn giáo chính là Hồi giáo, sự ngăn cách về ngôn ngữ và dân tộc giữa phía đông và phía tây cộng với một chính phủ chủ yếu của Tây Pakistan, khiến nước này tuyên bố độc lập dưới sự lãnh đạo của Sheikh Mujibur Rahman năm 1971 sau một cuộc Chiến tranh giải phóng Bangladesh đẫm máu, với sự trợ giúp của Ấn Độ. Những năm sau độc lập là giai đoạn bất ổn chính trị của đất nước, với mười ba chính phủ và ít nhất bốn cuộc đảo chính quân sự.
Dân số Bangladesh xếp hạng thứ tám trên thế giới, nhưng với diện tích chỉ 147.575 km² (đứng thứ 94), biến nước này trở thành một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Đây là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, nhưng số tín đồ Hồi giáo vẫn hơi ít hơn so với số tín đồ Hồi giáo tại Ấn Độ (dù Hồi giáo chỉ là tôn giáo phụ tại Ấn Độ). Về mặt địa lý, nước này chủ yếu gồm Đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra, nước này cũng có những trận lụt theo gió mùa hàng năm, và thường có lốc xoáy. Bangladesh là một thành viên sáng lập Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), BIMSTEC, và là một thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và D-8.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Những tàn tích của nền văn minh tại vùng đại Bengal có niên đại từ 4.000 năm trước[5][6], khi vùng này là nơi sinh sống của người Dravida, Tạng-Miến và Nam Á. Nguồn gốc chính xác của từ Bangla hay Bengal hiện vẫn chưa được biết, dù mọi người tin rằng nó xuất phát từ bộ lạc Bang nói tiếng Dravida đã từng sống ở vùng này khoảng năm 1000 TCN[7]. Sau khi người Ấn-Arya tới đây, vương quốc Gangaridai được thành lập từ ít nhất thế kỷ thứ VII TCN, sau này vương quốc này thống nhất với Bihar thuộc Đế chế Magadha. Ở thời triều đại Maurya được Chandragupta Maurya thành lập, Đế chế Magadha trải dài hầu như một nửa tiểu lục địa Ấn Độ và nhiều phần của Ba Tư cũng như Afghanistan. Bengal sau này trở thành một phần của đế chế Gupta từ thế kỷ III tới thế kỷ VI. Sau khi đế chế này sụp đổ, một triều đại Bengal khá rực rỡ tên gọi Shashanka được thành lập nhưng không tồn tại lâu. Sau giai đoạn quân chủ, triều đại Pala Phật giáo cai trị vùng này trong hơn 400 năm, tiếp sau là một giai đoạn cầm quyền ngắn của triều đại Sena Hindu. Đạo Hồi bắt đầu du nhập vào Bengal ở thế kỷ XII nhờ các nhà truyền giáo Sufi và những cuộc chinh phục sau này của Hồi giáo giúp tôn giáo này phát triển ra toàn vùng[8]. Bakhtiyar Khalji, một vị tướng người Thổ Nhĩ Kỳ, đánh bại Lakshman Sen của triều đình Sena và chinh phục nhiều vùng rộng lớn tại Bengal. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều triều đại Hồi giáo và các vị lãnh chúa phong kiến trong 500 năm sau đó. Tới thế kỷ XVI, đế chế Mughal kiểm soát Bengal, và Dhaka trở thành một trung tâm tỉnh lỵ quan trọng của chính quyền Mughal.
Những thương nhân châu Âu tới đây từ cuối thế kỷ XV, và ảnh hưởng của họ dần tăng lên tới khi Công ty Đông Ấn của Anh giành quyền kiểm soát Bengal sau trận Plassey năm 1757[9]. Cuộc nổi dậy đẫm máu năm 1857, được gọi là cuộc binh biến Sepoy, dẫn tới việc quyền lực được giao cho hoàng gia Anh, với một vị phó vương người Anh quản lý bộ máy hành chính (Baxter[9], trang 30—32). Trong thời thuộc địa, nạn đói nhiều lần xảy ra trên tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cả nạn đói Bengal năm 1770 khiến 3 triệu người chết.[10] Trong giai đoạn từ 1905 đến 1911, một nỗ lực phân chia tỉnh Bengal thành hai vùng, với Dhaka là thủ phủ vùng phía đông đã sớm thất bại (Baxter[9], trang 39—40). Khi Ấn Độ bị chia sẻ năm 1947, Bengal được chia theo vùng tôn giáo, với vùng phía tây thuộc Ấn Độ và vùng phía đông trở thành lãnh thổ Pakistan với tên gọi là tỉnh Đông Bengal (sau này được đổi tên thành Đông Pakistan), với thủ phủ tại Dhaka[11]. Năm 1950, cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành ở Đông Bengal với việc bãi bỏ hệ thống phong kiến Zamindar (Baxter[9], trang 72). Tuy nhiên bất chấp sức mạnh kinh tế và nhân khẩu của phía đông, chính phủ Pakistan và quân đội vẫn bị thống trị bởi tầng lớp thượng lưu phía tây. Phong trào ngôn ngữ Bengal năm 1952 là dấu hiệu đầu tiên về sự xích mích giữa hai vùng của Pakistan (Baxter[9], trang 62—63). Sự bất mãn với chính phủ trung ương về các vấn đề văn hóa và kinh tế tiếp tục tăng lên trong thập kỷ tiếp theo, trong thời gian ấy Liên đoàn Awami nổi lên trở thành tiếng nói chính trị của dân cư nói tiếng Bengal. Liên đoàn đã kêu gọi quyền tự trị trong thập niên 1960, và 1966, chủ tịch phong trào Sheikh Mujibur Rahman bị tống giam; ông được thả năm 1969 sau một vụ nổi dậy chưa từng thấy của người dân.
Năm 1970, bão Bhola[12] đã tàn phá vùng bờ biển Đông Pakistan, chính phủ trung ương phản ứng chậm chạp. Sự tức giận của người dân Bengal càng gia tăng khi Sheikh Mujibur Rahman cùng với Liên đoàn Awami của mình giành đa số tại Nghị viện trong cuộc bầu cử năm 1970, (Baxter[9], trang 78—79) bị ngăn cản nhậm chức. Sau những cuộc đàm phán thất bại với Mujib, Tổng thống Yahya Khan đã bắt ông trong đêm ngày 25 tháng 3 năm 1971, và tiến hành Chiến dịch Đèn pha[13], một cuộc tấn công nhằm duy trì quyền kiểm soát quân sự với phía Đông Pakistan. Những biện pháp của Yahya gây đổ máu rất lớn, và bạo lực của cuộc chiến dẫn tới cái chết của nhiều dân thường[14]. Các mục tiêu chủ yếu là tầng lớp trí thức và những người theo đạo Hindu, với khoảng 10 triệu người tị nạn phải bỏ chạy sang quốc gia láng giềng là Ấn Độ (LaPorte[15], trang 103). Những con số ước tính về số người bị thảm sát lên tới từ hàng trăm nghìn tới 3 triệu người[16][17]. Đa số lãnh đạo Liên đoàn Awami phải bỏ trốn và lập ra một chính phủ hải ngoại tại Calcutta, Ấn Độ. Chiến tranh giải phóng Bangladesh kéo dài 9 tháng. Du kích Mukti Bahini và quân chính quy Bengal nhận được sự hỗ trợ từ phía Các lực lượng vũ trang Ấn Độ tháng 12 năm 1971. Dưới sự chỉ huy của Trung tướng J.S. Arora, quân đội Ấn Độ đã giành được thắng lợi quyết định trước Pakistan ngày 16 tháng 12 năm 1971, bắt 90.000 tù binh[18] trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971.
Sau khi giành được độc lập, Bangladesh trở thành một nhà nước dân chủ nghị viện, Mujib làm Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1973, Liên đoàn Awami giành được đa số tuyệt đối. Một nạn đói toàn quốc diễn ra trong năm 1973 và 1974[10] và đầu năm 1975, Mujib đưa ra sáng kiến một đảng xã hội chủ nghĩa cầm quyền với tổ chức BAKSAL mới được thành lập của ông. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Mujib và gia đình bị các sĩ quan trung cấp ám sát.[19] Một loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính đẫm máu diễn ra trong ba tháng tiếp theo, lên tới cực điểm khi tướng Ziaur Rahman, người tái lập chế độ chính trị đa đảng và đồng thời là người thành lập đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), lên nắm quyền. Thời kỳ cầm quyền của Zia kết thúc khi ông bị ám sát năm 1981 bởi những sĩ quan không quân trong quân đội[19]. Người cầm quyền chủ yếu tiếp sau của Bangladesh là tướng Hossain Mohammad Ershad, người giành được quyền lực sau một cuộc đảo chính đẫm máu năm 1982 và tại vị đến năm 1990, khi ông bị gạt ra rìa sau một cuộc nổi dậy của dân chúng. Từ đó, Bangladesh chuyển thành một chế độ dân chủ nghị viện. Vợ góa của Zia, Khaleda Zia, lãnh đạo BNP giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991 và 2001 và trở thành Thủ tướng từ năm 1991 tới 1996 và một lần nữa từ năm 2001 tới hiện tại. Sheikh Hasina, một trong những người con gái còn sống của Mujib và là lãnh đạo Liên đoàn Awami, nắm quyền từ năm 1996 đến 2001. Dù Bangladesh nằm dưới sự lãnh đạo của hai nhà nữ chính trị khác nhau nhưng nước này vẫn ở tình trạng tham nhũng tràn lan[20], hỗn loạn và bạo lực chính trị.
Chính phủ và chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc ca | Amar Shonar Bangla |
Động vật | Hổ Hoàng gia Bengal |
Chim | Chích chòe phương Đông |
Cá | Cá cháy Bangladesh |
Hoa | Súng trắng |
Quả | Mít |
Thể thao | Kabadi |
Lịch | Lịch Bengal |
Bangladesh là một nước dân chủ nghị viện. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, một chức vụ có tính nghi lễ. Quyền lực thực sự do thủ tướng, là lãnh đạo chính phủ nắm giữ. Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm và thông thường có các quyền lực hạn chế chỉ được tăng quyền trong thời kỳ có chính phủ lâm thời, đa phần để kiểm soát sự chuyển tiếp sang một chính phủ mới. Bangladesh đã thiết lập một hệ thống chuyển giao quyền lực duy nhất; vào thời điểm hết nhiệm kỳ chính phủ, quyền lực được trao lại cho các thành viên của một chính phủ lâm thời trong 3 tháng, tổ chức này sẽ tổ chức tổng tuyển cử và chuyển giao lại quyền lực cho những đại diện được bầu ra. Hệ thống này lần đầu được áp dụng năm 1991 và được đưa vào thành quy định trong hiến pháp năm 1996, là lần sửa đổi thứ 13 của hiến pháp[21].
Thủ tướng theo nghi thức do tổng thống chỉ định và phải là một thành viên nghị viện (MP), được sự tin cậy của đa số thành viên. Chính phủ gồm các bộ trưởng do thủ tướng lựa chọn và do tổng thống chỉ định. Hệ thống một viện với 300 thành viên Quốc hội hay Jatiyo Sangshad, do dân bầu với chỉ một đại biểu cho mỗi khu bầu cử có nhiệm kỳ năm năm. Quyền bỏ phiếu phổ thông cho mọi công dân từ 18 tuổi.
Hiến pháp Bangladesh được soạn thảo năm 1972 và đã trải qua 13 lần sửa đổi[21]. Cơ quan tư pháp cao nhất là Tòa án tối cao, chánh án và các thẩm phán khác của Tòa án tối cao do Tổng thống chỉ định. Tư pháp không tách rời khỏi hành chính, gây ra nhiều rối loạn trong những năm gần đây. Luật pháp dựa lỏng lẻo theo thông luật Anh, nhưng các đạo luật gia đình như hôn nhân và thừa kế dựa theo tôn giáo, và vì thế khác biệt tùy theo từng cộng đồng tôn giáo.
Hai đảng chính tại Bangladesh là Đảng Quốc gia Bangladesh (BNP) và Liên đoàn Awami Bangladesh. BNP có đồng minh là các đảng Hồi giáo như Jamaat-e-Islami Bangladesh và Islami Oikya Jot, trong khi Liên đoàn Awami liên kết cùng phe cánh tả và các đảng phi tôn giáo. Một nhóm khác đóng vai trò khá quan trọng là Đảng Jatiya, do cựu lãnh đạo quân đội Ershad đứng đầu. Sự đối đầu Liên đoàn Awami-BNP rất gay gắt và thường dẫn tới những cuộc phản kháng, bạo lực và gây thiệt hại nhân mạng. Cánh chính trị sinh viên có vai trò rất lớn tại Bangladesh, di sản từ thời phong trào giải phóng cuộc gia. Hầu như tất cả các đảng chính trị đều có cánh sinh viên hoạt động rất mạnh và nhiều sinh viên đã được bầu vào Nghị viện.
Hai đảng Hồi giáo cực đoan, Jagrata Muslim Janata Bangladesh (JMJB) và Jama'atul Mujahideen Bangladesh (JMB), đã bị cấm hoạt động vào tháng 2 năm 2005. Từ một loạt những vụ đánh bom năm 1999 gây thiệt mạng hàng trăm người và gây nỗi sợ hãi trong toàn quốc gia, nhiều lời buộc tội đã nhắm tới các đảng đó và hàng trăm thành viên của họ đã bị cầm giữ trong các chiến dịch an ninh, gồm cả lãnh đạo hai đảng vào năm 2006. Trường hợp đánh bom tự sát đầu tiên tại Bangladesh diễn ra tháng 11 năm 2005.
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Bangladesh được chia thành tám phân khu hành chính,[22] mỗi phân khu được đặt tên theo thủ phủ của nó: Barisal, Chittagong, Dhaka, Khulna, Mymensingh Rajshahi, Sylhet và Rangpur.
Các phân khu được chia tiếp thành huyện (zila). Có 66 huyện tại Bangladesh, mỗi huyện được chia tiếp thành các upazila (phó huyện) hoặc thana. Trong khu vực phạm vi của mỗi trạm cảnh sát, ngoại trừ ở các khu vực đô thị, được chia thành vài liên hiệp, mỗi liên hiệp gồm nhiều làng. Tại các khu vực đô thị, phạm vi của các đồn cảnh sát được chia thành phường, và được chia tiếp thành mahallas. Không có bầu cử các quan chức ở cấp phân khu hay cấp huyện, và chính quyền chỉ gồm các quan chức chính phủ. Các cuộc bầu cử trực tiếp được thực hiện ở cấp liên hiệp (hay phường), bầu ra chủ tịch và một số thành viên. Năm 1997, một đạo luật của quốc hội đã được thông qua để định ra ba ghế tối thiểu (trong tổng số 12) trong mỗi liên hiệp cho các ứng cử viên nữ.[23]
Dhaka là thủ đô và thành phố lớn nhất của Bangladesh. Các thành phố chính là: Dhaka, Chittagong, Khulna, Rajshahi, Sylhet, Barisal, Rangpur, Comilla và Gazipur. Các thành phố này có các cuộc bầu cử thị trưởng. Các thành phố chính khác bao gồm Mymensingh, Gopalganj, Jessore, Bogra, Dinajpur, Saidapur, Narayanganj và Rangamati. Các thành phố này cùng các đô thị khác được phép tiến hành bầu cử một chủ tịch. Các thị trưởng và chủ tịch được bầu theo nhiệm kì 5 năm.
Phân khu của Bangladesh | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Phân khu | Thủ phủ | Thành lập | Diện tích (km²)[24] | Dân số [24] | Mật độ[24] | ||
Barisal | Barisal | ||||||
Chittagong | Chittagong | ||||||
Dhaka | Dhaka | ||||||
Khulna | Khulna | ||||||
Mymensingh | Mymensingh | ||||||
Rajshahi | Rajshahi | ||||||
Rangpur | Rangpur | ||||||
Sylhet | Sylhet |
Địa lý và Khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Bangladesh nằm ở vùng thấp của đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra hay Đồng bằng sông Hằng. Đồng bằng này được hình thành nhờ hợp lưu sông Hằng (tên địa phương Padma hay Pôdda), Sông Brahmaputra (Sông Jamuna jau Jomuna), và Sông Meghna tại các nhánh của chúng. Đất phù sa lắng đọng do các con sông trên mang lại đã tạo nên một trong những đồng bằng màu mỡ nhất thế giới.
Đa phần Bangladesh nằm thấp 10 mét dưới mực nước biển, và mọi người cho rằng 10% đất đai sẽ bị ngập chìm nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét[25]. Điểm cao nhất Bangladesh nằm tại dãy Mowdok ở độ cao 1.052 m (3.451 ft) tại vùng đồi Chittagong phía đông nam đất nước[26]. Một phần chính vùng duyên hải có các rừng nhiệt đới nhiều đầm lầy. Sundarbans, một trong những khu rừng tràm đước lớn nhất thế giới là nơi sinh sống của nhiều hệ động thực vật, gồm cả hổ Bengal. Năm 1997, vùng này được xếp vào danh sách các khu vực đang nguy cấp[27].
Dọc theo Hạ chí tuyến, khí hậu Bangladesh là khí hậu nhiệt đới với mùa đông dễ chịu từ tháng 10 tới tháng 3, mùa hè nóng ẩm từ tháng 3 tới tháng 6. Mùa gió mùa ấm và ẩm kéo dài từ tháng 6 tới tháng 10 mang tới đa phần lượng mưa của nước này. Các thảm họa thiên nhiên, như lũ lụt, lốc nhiệt đới, lốc xoáy, và lở đất do thủy triều xảy ra hầu như hàng năm cộng với những hậu quả của nạn phá rừng, thoái hóa đất và xói lở. Cox's Bazar, phía nam thành phố Chittagong, có một bãi biển trải dài liên tục hơn 120 kilômét (75 dặm); đây là một trong những bãi biển tự nhiên còn ở tình trạng hoang sơ dài nhất thế giới.
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Dù có những nỗ lực trong nước và quốc tế nhằm cải thiện triển vọng kinh tế và nhân khẩu, Bangladesh vẫn là một quốc gia dưới mức phát triển và dân số quá đông đúc. Thu nhập trên đầu người năm 2016 ở mức thấp US$4,205, và nhiều chỉ số kinh tế khác còn kém cỏi hơn thế[28]. Tuy vậy, như Ngân hàng Thế giới ghi chú trong bản báo cáo ngắn tháng 7 năm 2005 của họ, nước này đã có bước phát triển ấn tượng trong lĩnh vực phát triển con người bằng cách tập trung nâng cao trình độ học vấn, thực thi bình đẳng giới trong trường học và giảm phát triển dân số. Tính đến năm 2016, GDP của Bangladesh là 229.760 tỉ USD đứng thứ 46 thế giới, đứng thứ 17 châu Á và đứng thứ 3 Nam Á (sau Ấn Độ và Pakistan).
Đay là một trong những động cơ kinh tế của đất nước. Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai và cuối thập niên 1940 sản phẩm đay của Bangladesh chiếm 80% thị trường thế giới[29] và thậm chí vào đầu thập niên 1970 vẫn chiếm 70% doanh thu xuất khẩu. Tuy nhiên, các sản phẩm polypropylen bắt đầu thay thế các sản phẩm đay trên khắp thế giới và ngành công nghiệp này bắt đầu giảm sút. Bangladesh cung cấp lượng sản phẩm gạo, chè và mù tạc đáng kế. Dù hai phần ba dân số Bangladesh là nông dân, hơn ba phần tư lượng xuất khẩu của họ có được từ công nghiệp dệt may[30], ngành này bắt đầu thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong thập niên 1980 nhờ giá nhân công rẻ và chi phí chuyển đổi thấp. Năm 2002, ngành công nghiệp này xuất khẩu lượng sản phẩm trị giá 5 tỷ USD[31]. Hiện nay ngành này sử dụng hơn 3 triệu công nhân, 90% là phụ nữ[32]. Một phần ngoại tệ khác thu được từ các khoản tiền gửi từ những người Bangladesh sống ở nước ngoài.
Các cản trở đối với sự phát triển bao gồm những cơn lũ và lốc xoáy thường xuyên, các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, quản lý yếu kém cơ sở vật chất bến cảng, sự tăng trưởng nhanh lực lượng lao động vượt quá mức cung việc làm, sử dụng không hiệu quả các nguồn năng lượng (như khí tự nhiên), nguồn cung năng lượng không đủ, chậm áp dụng cải cách kinh tế, tranh giành chính trị và tham nhũng. Theo bản báo cáo ngắn về các quốc gia của Ngân hàng thế giới tháng 7 năm 2005: "Một trong những vật cản lớn nhất đối với sự tăng trưởng của Bangladesh là quản lý kém và sự yếu kém trong các định chế công cộng"[33].
Từ năm 1990, theo Ngân hàng Thế giới nước này đã đạt được mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 5%, dù có những chướng ngại đó. Tầng lớp trung lưu và công nghiệp tiêu dùng đã có bước phát triển đầu tiên. Tháng 12 năm 2005, bốn năm sau bản báo cáo của họ về những nền kinh tế đang nổi lên "BRIC" (Brasil, Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc), Goldman Sachs đã coi Bangladesh là một trong "Mười một Quốc gia tiếp theo"[34], cùng với Ai Cập, Indonesia và nhiều nước khác. Bangladesh đã đạt được mức tăng trưởng cao trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số tập đoàn đa quốc gia, gồm cả Unocal Corporation và Tata, đã đầu tư các khoản vốn lớn vào đây, lĩnh vực khí tự nhiên thu hút nhiều nhà đầu tư nhất. Tháng 12 năm 2005, Ngân hàng Trung ương Bangladesh đề ra kế hoạch tăng trưởng GDP ở mức khoảng 6,5%[35].
Một trong những yếu tố đóng góp nhiều vào sự tăng trưởng của nền kinh tế là sự truyền bá mở rộng chương trình tín dụng nhỏ của Muhammad Yunus thông qua Ngân hàng Grameen. Tới cuối thập niên 1990, Ngân hàng Grameen đã có 2,3 triệu thành viên cùng với 2,5 triệu thành viên của các tổ chức khác[36].
Để tăng cường phát triển kinh tế, chính phủ đã tạo ra nhiều khu chế xuất để thu hút đầu tư nước ngoài. Những khu công nghiệp này được điều hành bởi Cơ quan Khu chế xuất Bangladesh.
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]Dân số Bangladesh theo ước tính gần đây là khoảng 173 triệu người[37], làm cho Bangladesh đứng trong nhóm 10 nước đông dân nhất thế giới. Với số dân đông hơn cả Nga nhưng có diện tích chỉ 147.000 km², khiến nước này có mật độ dân số rất lớn. Tăng trưởng dân số ở mức rất cao trong các thập niên 1960 và 1970 khiến dân số tăng từ 50 lên 90 triệu người. Việc tăng cường kiểm soát sinh sản trong thập niên 1980 đã góp phần giảm tỷ lệ này. Dân số Bangladesh khá trẻ, với nhóm độ tuổi 0–25 chiếm 60%, trong khi chỉ 3% là từ 65 trở lên. Tuổi thọ ở mức 63 tuổi đối với cả phụ nữ và nam giới[38].
Bangladesh là quốc gia đồng nhất về mặt sắc tộc, với người Bangladesh chiếm 98% dân số. Phần còn lại chủ yếu là những người di trú gốc Bihar và các nhóm sắc tộc bản địa. Có 13 nhóm sắc tộc phân bố trong vùng đồi Chittagong, đông dân nhất trong số này là người Chakma. Khu vực này là nguồn gốc của căng thẳng sắc tộc kể từ khởi đầu của nhà nước Bangladesh[39]. Các nhóm bộ tộc lớn nhất ngoài vùng đồi núi là người Santal và Garos (Achiks). Buôn bán người đã trở thành một vấn đề kinh niên tại Bangladesh[40] và việc nhập cư bất hợp pháp đang là nguyên nhân gây xích mích với Myanma[41] và Ấn Độ[42].
Ngôn ngữ chính, tại Tây Bengal, là tiếng Bengal, một ngôn ngữ Ấn-Arya có nguồn gốc tiếng Phạn và có bảng ký tự riêng. Bangla là ngôn ngữ chính thức của Bangladesh. Tiếng Anh được sử dụng như ngôn ngữ thứ hai trong tầng lớp trung và thượng lưu và trong giáo dục cao học. Từ Nghị định Tổng thống năm 1987, Bangla được dùng trong mọi văn bản nhà nước trừ đối ngoại.
Hai tôn giáo chính ở Bangladesh là Hồi giáo (88% theo ước tính của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ, 2005) và Hindu giáo (11% theo ước tính của Bộ nội vụ Hoa Kỳ, 2005). Dân tộc Bihari chủ yếu là người Hồi giáo Shia. Các nhóm tôn giáo khác gồm Phật giáo, Thiên chúa giáo và Thuyết duy linh.
Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục gần đây đã được cải thiện khi mức nghèo khổ giảm bớt. Tuy nhiên, Bangladesh vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới . Đa số dân Bangladesh làm nông nghiệp, sống nhờ đồng ruộng. Gần một nửa số dân sống với chưa tới 1 USD mỗi ngày[43]. Có rất nhiều vấn đề sức khoẻ, từ ô nhiễm nước mặt tới nước ngầm nhiễm asen[44], và bệnh tật như sốt rét, trùng xoắn móc câu và sốt Dengue. Tỷ lệ biết chữ tại Bangladesh là khoảng 41%[45]. Theo ước tính năm 2004 của Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), có sự chênh lệch về mức độ biết đọc viết giữa hai giới, tỷ lệ này ở nam giới là 50% trong khi ở phụ nữ chỉ là 31%[46]. Tỷ lệ biết chữ đã tăng lên nhờ nhiều chương trình hành động quốc gia. Một trong những chương trình thành công nhất là Lương thực cho Giáo dục (FFE) được đưa ra năm 1993 [47], và một chương trình trả lương cho phụ nữ theo học mức tiểu học và trung học[48].
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]Hồi giáo là tôn giáo lớn nhất của Bangladesh, người Hồi giáo chiếm 89,5% dân số, tiếp theo là Ấn Độ giáo, chiếm 9,6%, ngoài ra còn Phật giáo, Kitô giáo, các tôn giáo nhỏ khác và vô thần.[50]
Người Hồi giáo chiếm gần 90 % dân số.[50] Hầu hết người Hồi giáo tại Bangladesh là người Hồi giáo Sunni, nhưng có một cộng đồng người Hồi giáo Shia nhỏ và cộng đồng nhỏ hơn là giáo phái Ahmadiyya. Hầu hết những người Shia sinh sống trong khu vực đô thị. Cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Bengal phát triển độc lập so với các xu hướng Hồi giáo thống trị ở Ấn Độ. Bangladesh cũng là quốc gia Hồi giáo duy nhất cam kết bảo tồn các yếu tố văn hóa của Phật giáo và Ấn Độ giáo có từ thời tiền Hồi giáo.
Tuy là quốc gia Hồi giáo nhưng sau khi giành được độc lập từ Pakistan, chủ nghĩa thế tục đã được quy định trong bản Hiến pháp của Bangladesh vào năm 1972 và là một trong bốn nguyên tắc chính của nhà nước Bangladesh, 3 nguyên tắc khác là dân chủ, dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 2010, Tòa án Tối cao Bangladesh ban lệnh duy trì các nguyên tắc thế tục của hiến pháp năm 1972. Tách đạo Hồi ra khỏi hệ thống chính trị của quốc gia.[51]
Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn thứ hai ở Bangladesh, bao gồm khoảng 10 phần trăm dân số như điều tra dân số năm 2001.[52] Về dân số, Bangladesh là nước có cộng đồng Ấn giáo lớn thứ ba trên thế giới, sau Ấn Độ và Nepal. Ấn giáo hiện nay có ảnh hưởng lớn đến chính trị ở Bangladesh, tôn giáo này có 4 đại diện trong quốc hội Bangladesh.
Có khoảng 1 triệu người Bangladesh theo Phật giáo Theravada, tức chiếm khoảng 0,7% dân số. Trong thời cổ đại, khu vực của Bangladesh ngày nay là một trung tâm Phật giáo lớn ở châu Á, bao gồm cả triết lý và kiến trúc. Kiến trúc Phật giáo ở Campuchia, Indonesia và Thái Lan, trong đó có đền Angkor Wat và Borobudur, được cho là đã được lấy cảm hứng từ các tu viện cổ xưa của Bangladesh như Somapura Mahavihara. Hầu hết những người theo Phật giáo ở Bangladesh sống ở khu vực miền Đông Nam nước này, đặc biệt là trong vùng đồi Chittagong, và huyện Comilla.
Kitô giáo đến Bangladesh trong thời gian cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ thứ XVII, thông qua các thương nhân Bồ Đào Nha và các nhà truyền giáo. Kitô giáo chiếm 0,3% dân số tức khoảng 600.000 người, trong đó cộng đồng Công giáo Rôma và Tin Lành là lớn nhất.
Văn hoá
[sửa | sửa mã nguồn]Là một quốc gia mới nhưng bắt nguồn từ một dân tộc có lịch sử dài lâu, Bangladesh có một nền văn hóa bao gồm nhiều yếu tố cả mới và cũ. Ngôn ngữ Bangla có một di sản văn học rất phong phú, đây là di sản chung của Bangladesh với bang Tây Bengal Ấn Độ. Văn bản tiếng Bangla đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ thứ tám Charyapada. Văn học Bangla thời trung cổ thường mang tính tôn giáo (như Chandidas), hay phòng theo từ các ngôn ngữ khác (như Alaol). Văn học Bangla phát triển ở mức độ cao nhất vào thế kỷ mười chín. Các biểu tượng lớn nhất của nó là nhà thơ Rabindranath Tagore và Kazi Nazrul Islam. Bangladesh cũng có truyền thống văn học dân gian dài lâu, thể hiện qua Maimansingha Gitika, Thakurmar Jhuli hay các câu chuyện về Gopal Bhar.
Âm nhạc truyền thống Bangladesh có căn bản trữ tình (Baniprodhan), với số lượng nhạc cụ sử dụng tối thiểu. Truyền thống Baul là duy sản duy nhất của âm nhạc dân gian Bangla và có nhiều truyền thống âm nhạc khác tại Bangladesh, khác biệt tùy theo vùng. Gombhira, Bhatiali, Bhawaiya đều là các hình thức âm nhạc ít được biết tới hơn. Âm nhạc dân gian Bengal thường có sử dụng ektara, một nhạc cụ một dây. Các nhạc cụ khác gồm dotara, dhol, sáo và trống cặp nhỏ. Bangladesh cũng có một di sản Âm nhạc cổ điển Bắc Ấn nổi bật. Tương tự, các hình thức nhảy múa Bangladesh cũng bắt nguồn từ các truyền thống dân gian, đặc biệt là các truyền thống của các nhóm bộ tộc, cũng như ở tầm rộng hơn là truyền thống nhảy múa Ấn Độ. Bangladesh sản xuất khoảng 80 bộ phim mỗi năm[53]. Các bộ phim phim Hindi cũng khá phổ biến, cũng như các bộ phim từ Kolkata, vốn đều thuộc nền công nghiệp phim ảnh Bengal đang phát triển thịnh vượng. Khoảng 200 tờ báo hàng ngày xuất bản tại Bangladesh, cùng với hơn 1.800 tờ báo định kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ độc giả thường xuyên khá thấp, khoảng 15% dân số[54]. Người Bangladesh có thể theo dõi nhiều chương trình phát thanh trong nước và nước ngoài từ Bangladesh Betar, cũng như các chương trình tiếng Bangla của BBC và Tiếng nói Hoa Kỳ. Kênh truyền hình trước kia thuộc sở hữu nhà nước đã được tư nhân hóa trong những năm gần đây và đã có một số bước phát triển nhảy vọt.
Truyền thống ẩm thực Bangladesh có quan hệ chặt chẽ với ẩm thực Ấn Độ và ẩm thực Trung Đông cũng như có nhiều nét riêng biệt. Gạo và cá là các món ăn được ưa thích truyền thống; dẫn tới một câu nói rằng "cá và gạo tạo nên người Bengal" (machhe bhate bangali). Tiêu thụ thịt đã tăng lên trong những năm gần đây. Người Bangladesh chế tạo ra những sản phẩm bánh kẹo rất đặc trưng từ sữa; một số loại thường gặp là Rôshogolla, Chômchôm và Kalojam.
Sari (shaŗi) là loại trang phục phổ biến nhất của phụ nữ Bangladesh. Tuy nhiên, salwar kameez (shaloar kamiz) cũng khá phổ thông, và tại những vùng thành thị một số phụ nữ mặc trang phục phương Tây. Đối với nam giới, trang phục phương Tây đã được chấp nhận rộng rãi. Nam giới cũng mặc theo kiểu kết hợp kurta-paejama, thường là vào các dịp lễ tôn giáo. Lungi, một kiểu váy dài, cũng được nhiều nam giới Bangladesh sử dụng.
Hai Eid, Eid ul-Fitr và Eid ul-Adha, là các lễ hội lớn nhất theo lịch Hồi giáo. Ngày hôm trước Eid ul-Fitr được gọi là Chãd Rat (đêm của Mặt trăng), và thường được chào mừng bằng những tràng pháo. Các ngày lễ Hồi giáo khác cũng được kỷ niệm. Các ngày lễ Hindu giáo là Durga Puja và Saraswati Puja. Buddha Purnima, chào mừng ngày sinh của Gautama Buddha, là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo trong khi Giáng sinh, được gọi là Bôŗodin (ngày Vĩ đại) trong tiếng Bangla được cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo đón mừng. Ngày lễ không tôn giáo quan trọng nhất là Nôbobôrsho hay năm mới của Bengal, ngày khởi đầu của lịch Bengal. Các lễ hội khác gồm Nobanno, Poush parbon (ngày lễ của Poush) ngày lễ kỷ niệm Shohid Dibosh.
Cricket là một trong những môn thể thao nổi tiếng nhất Bangladesh. Năm 2000, Đội tuyển cricket Bangladesh được trao mức Test cricket và gia nhập vào liên đoàn các đội tuyển quốc gia hùng mạnh trong môn thể thao này được Hội đồng Cricket Quốc tế cho phép chơi các trận đấu thử nghiệm. Các môn thể thao khác gồm bóng đá, hockey trên cỏ, tennis, bóng ném, bóng rổ, cờ và kabadi, một môn thể thao chơi theo đội 7 người, không có bóng cũng như bất kỳ một dụng cụ nào và là môn thể thao quốc gia của Bangladesh. Ủy ban Kiểm tra Thể thao Bangladesh quản lý 29 liên đoàn thể thao khác nhau.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “NATIONAL SYMBOLS→National march”. Bangladesh Tourism Board. Bangladesh: Ministry of Civil Aviation & Tourism. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2017.
In ngày 13 tháng 1 năm 1972, the ministry of Bangladesh has adopted this song as a national marching song on its first meeting after the country's independence.
- ^ “Health Bulletin 2016” (PDF). Directorate General of Health Services (DGHS). tr. 13. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2017.
- ^ . tr. 17.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp);|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ a b c d “Bangladesh”. World Economic Outlook Database. IMF.
- ^ Bharadwaj, G (2003). “The Ancient Period”. Trong Majumdar RC (biên tập). History of Bengal. B.R. Publishing Corp.
- ^ “4000-year old settlement unearthed in Bangladesh”. Tân Hoa xã. tháng 3 năm 2006.
- ^ James Heitzman và Robert L. Worden biên tập (1989). “Early History, 1000 TCN.-A.D. 1202”. Bangladesh: A country study. Library of Congress.
- ^ Eaton, R (1996). The Rise of Islam and the Bengal Frontier. Nhà in Đại học California. ISBN 0-520-20507-3.
- ^ a b c d e f Baxter, C (1997). Bangladesh, From a Nation to a State. Westview Press. ISBN 0-8133-3632-5.
- ^ a b Sen, Amartya (1973). Poverty and Famines. Oxford University Press. ISBN 0-19-828463-2. OCLC 10362534.
- ^ L Collins & D Lapierre (1986). Freedom at Midnight, Ed. 18. Nhà in Vikas, New Delhi. ISBN 0-7069-2770-2.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Frank, Neil (1971). “The deadliest tropical cyclone in history?” (PDF). Bulletin of the American Meteorological Society. American Meteorological Society. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2012. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)
- ^ Salik, Siddiq (1978). Witness to Surrender. Nhà in Đại học Oxford. ISBN 0-19-577264-4.
- ^ “Genocide in Bangladesh, 1971”. Gendercide Watch.
- ^ LaPorte, R (1972). “Pakistan in 1971: The Disintegration of a Nation”. Asian Survey. 12(2): 97–108.
- ^ White, M (2005). Death Tolls for the Major Wars and Atrocities of the Twentieth Century.
- ^ “The Bangladeshi holocaust”. VirtualBangladesh.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- ^ Burke, S (1973). “The Postwar Diplomacy of the Indo-Pakistani War of 1971”. Asian Survey. 13 (11): 1036–1049.
- ^ a b Mascarenhas, A (1986). Bangladesh: A Legacy of Blood. Hodder & Stoughton, London. ISBN 0-340-39420-X. OCLC 13004864.
- ^ Bangladesh tops most corrupt list - BBC
- ^ a b “Constitutional Amendments”. Banglapedia. Asiatic Society of Bangladesh. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
- ^ “National Web Portal of Bangladesh”. Bangladesh Government. ngày 15 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
- ^ Local Government Act, No. 20, 1997
- ^ a b c “2011 Population & Housing Census: Preliminary Results” (PDF). Bangladesh Bureau of Statistics. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2012.
- ^ Ali, A (1996). “Vulnerability of Bangladesh to climate change and sea level rise through tropical cyclones and storm surges”. Water, Air, & Soil Pollution. 92 (1–2): 171–179.
- ^ Summit Elevations: Frequent Internet Errors. Lưu trữ 2013-07-25 tại Wayback Machine Truy cập ngày 13-4-2006.
- ^ IUCN (1997). “Sundarban wildlife sanctuaries Bangladesh”. World Heritage Nomination-IUCN Technical Evaluation.
- ^ THống kê quốc gia Bangladesh Lưu trữ 2015-12-19 tại Wayback Machine, Unicef
- ^ “Jute”. Banglapedia. Asiatic Society of Bangladesh. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
- ^ Roland, B (2005). “Bangladesh Garments Aim to Compete”. BBC.
- ^ Rahman, S (2004). “Global Shift: Bangladesh Garment Industry in Perspective”. Asian Affairs. 26 (1): 75–91.
- ^ Begum, N (2001). “Enforcement of Safety Regulations in Garment sector in Bangladesh”. Proc. Growth of Garment Industry in Bangladesh: Economic and Social dimension. tr. 208–226.
- ^ Bangladesh - Country Brief, World Bank, 7/2005
- ^ “South Korea, Another `BRIC' in Global Wall”. ngày 9 tháng 12 năm 2005.
- ^ “Báo cáo hàng năm 2004-2005, Ngân hàng Bangladesh”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- ^ Schreiner, Mark (2003). “A Cost-Effectiveness Analysis of the Grameen Bank of Bangladesh,”. Development Policy Review. 21 (3): 357–382.
- ^ “Dân số Bangladesh 2024 - Cập nhật mới nhất từ Liên hợp quốc”. Thông tin Dân số. 26 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2024.
- ^ “World Health Report 2005”. Tổ chức Y tế Thế giới.
- ^ Rashiduzzaman, M (1998). “Bangladesh's Chittagong Hill Tracts Peace Accord: Institutional Features and Strategic Concerns”. Asian Survey. 38 (7): 653–670.
- ^ R Gazi & ZH Chowdhury, SMN Alam, E Chowdhury, F Ahmed, S Begum (2001). Trafficking of Women and Children in Bangladesh, Special Publication No. 11 (PDF). ICDDR,B. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ AI Index: ASA 16/005/2004, Amnesty International
- ^ “report covering the issue”. BBC News.
- ^ “Congressional Budget Justification - FY 2005”. USAID. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- ^ R Nickson & J McArthur, W Burgess, KM Ahmed, P Ravenscroft, M Rahman (1998). “Arsenic poisoning of Bangladesh groundwater”. Nature (6700): 338.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ “2005 Human Development Report”. UNDP. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- ^ UNICEF: Bangladesh Statistics Lưu trữ 2015-12-19 tại Wayback Machine.
- ^ A Ahmed & C del Nino (2002). The food for education program in Bangladesh: An evaluation of its impact on educational attainment and food security, FCND DP No. 138. International Food Policy Research Institute.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ S Khandker & M Pitt, N Fuwa (2003). Subsidy to Promote Girls' Secondary Education: the Female Stipend Program in Bangladesh. World Bank, Washington DC.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ জানুন [Bangladesh] (PDF) (bằng tiếng Bengal). US department of States.
|script-title=
không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) - ^ a b “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ JULHAS ALAM – Associated Press (ngày 21 tháng 6 năm 2011). http://my.news.yahoo.com/bangladesh-moves-retain-islam-state-religion-103136892.html Lưu trữ 2013-02-03 tại Wayback Machine
- ^ “Bangladesh”. Truy cập 14 tháng 8 năm 2015.
- ^ Feature film in Banglapedia
- ^ Newspapers and periodicals in Banglapedia
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bangladesh. |
Từ điển từ Wiktionary | |
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Tin tức từ Wikinews | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks | |
Tài nguyên học tập từ Wikiversity |
- Chính thức
- “Bangladesh Government Official Web Page”.
- “Election Commission Secretariat”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- “Official parliamentary site”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- “Electronic forms from the Government of Bangladesh”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2006.
- “National Board of Revenue”.
- “Bangladesh Telephone and Telegraph Board (BTTB/T&T)”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.
- “Bangladesh Government Digitized Form”. Truy cập 18-8 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp)
- Dữ liệu
- Khác
- “Banglapedia - National Encyclopedia of Bangladesh”.
- “United Nations in Bangladesh”.
- “Bangladesh Garment Manufacturers and Exporters Association”.
- “Background Note: Bangladesh, U.S. Department of State (8/2005)”.
- “Federation of Bangladesh Chambers of Commerce and Industry”.
- “Various policies of Bangladesh”.
- “Genocide in Bangladesh, 1971”.
- Mục “Bangladesh” trên trang của CIA World Factbook.
- Bangladesh
- Quốc gia thành viên Khối D8
- Bengal
- Cựu thuộc địa và xứ bảo hộ Anh tại châu Á
- Quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo
- Quốc gia thành viên Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á
- Quốc gia xã hội chủ nghĩa
- Nước kém phát triển
- Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh
- Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
- Quốc gia Nam Á
- Cộng hòa Thịnh vượng chung
- Quốc gia châu Á
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Bengal