Bước tới nội dung

USS Birmingham (CL-62)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Birmingham underway in Hampton Roads, 1943
Tàu tuần dương USS Birmingham trên đường đi tại Hampton Roads, ngày 20 tháng 2 năm 1943.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Birmingham
Đặt tên theo Birmingham, Alabama
Xưởng đóng tàu Newport News Shipbuilding and Dry Dock Company
Đặt lườn 17 tháng 2 năm 1941
Hạ thủy 20 tháng 3 năm 1942
Người đỡ đầu Bà Cooper Green
Nhập biên chế 29 tháng 1 năm 1943
Xuất biên chế 2 tháng 1 năm 1947
Xóa đăng bạ 1 tháng 3 năm 1959
Danh hiệu và phong tặng 9 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bị tháo dỡ 1959
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Cleveland
Kiểu tàu Tàu tuần dương hạng nhẹ
Trọng tải choán nước
  • 11.800 tấn Anh (12.000 t) (tiêu chuẩn);
  • 14.131 tấn Anh (14.358 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 600 ft (180 m) (mực nước);
  • 608 ft 4 in (185,42 m) (chung)
Sườn ngang 66 ft 4 in (20,22 m)
Chiều cao 113 ft (34 m)
Mớn nước
  • 20 ft 6 in (6,25 m) (trung bình);
  • 25 ft (7,6 m) (tối đa)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph)
Tầm xa 14.500 nmi (26.850 km; 16.690 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 1.255
    • 70 sĩ quan,
    • 1.115 thủy thủ
Vũ khí
  • khi chế tạo:
  • 1944/1945:
    • 12 × pháo 6 in (150 mm)/47 caliber trên tháp pháo ba nòng Mark 16 (4×3);
    • 12 × pháo đa dụng 5 in (130 mm)/38 caliber (6×2);
    • 28 × pháo phòng không Bofors 40 mm (4×4, 6×2);
    • 10 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm
Bọc giáp
  • đai giáp: 3,25–5 in (83–127 mm);
  • vách ngăn: 5 in (130 mm);
  • sàn tàu: 2 in (51 mm);
  • tháp pháo:
    • 6,5 in (165 mm) mặt trước,
    • 3 in (76 mm) nóc,
    • 3 in (76 mm) mặt hông,
    • 1,5 in (38 mm) mặt sau;
  • bệ tháp pháo: 6 in (150 mm);
  • tháp chỉ huy: 2,25–5 in (57–127 mm)
Máy bay mang theo 4 × thủy phi cơ SOC Seagull
Hệ thống phóng máy bay 2 × máy phóng

USS Birmingham (CL-62) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, theo tên thành phố Birmingham thuộc tiểu bang Alabama. Con tàu được cho nhập biên chế vào ngày 29 tháng 1 năm 1943, và đã phục vụ trong hai tháng tại mặt trận Địa Trung Hải trước khi được chuyển sang phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương, mãi cho đến khi chiến tranh kết thúc. Giống hầu hết các tàu chị em cùng lớp, nó xuất biên chế không lâu sau đó, được đưa về lực lượng dự bị và không bao giờ phục vụ trở lại; con tàu bị tháo dỡ vào cuối những năm 1950. Birmingham được tặng thưởng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Cleveland được thiết kế nhằm mục đích gia tăng tầm xa hoạt động, tăng cường hỏa lực phòng không và sự bảo vệ chống ngư lôi so với các tàu tuần dương Hoa Kỳ trước đây. Cho dù kém hơn ba nòng pháo 6-inch so với những chiếc lớp Brooklyn dẫn trước, hệ thống kiểm soát hỏa lực mới và tiên tiến hơn giúp cho lớp Cleveland có được ưu thế về hỏa lực trong chiến đấu thực tế. Tuy nhiên việc tăng cường thêm dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ cho đến cuối Thế Chiến II khiến các con tàu bị nặng đầu đáng kể.[1]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Birmingham được đặt lườn vào ngày 17 tháng 2 năm 1941 tại xưởng đóng tàu của hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock CompanyNewport News thuộc Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1942, được đỡ đầu bởi Bà Cooper Green, phu nhân chủ tịch quản lý thành phố Birmingham; và được cho nhập biên chế tại Xưởng hải quân Norfolk vào ngày 29 tháng 1 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của hạm trường, Đại tá Hải quân John Wilkes.[2][3]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy, Birmingham được phân về Hạm đội Đại Tây Dương, khởi hành từ vào ngày 2 tháng 6, nó di chuyển đến Địa Trung Hải và đã bắn pháo hỗ trợ cho Chiến dịch Husky, cuộc đổ bộ lên Sicilia thuộc miền Nam nước Ý, từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 7 năm 1943. Quay trở lại Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 8, nó được chuyển về Hạm đội Thái Bình Dương và đã đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 6 tháng 9.[2]

Gia nhập thành phần hộ tống cho lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, nó tham gia cuộc tấn công đảo san hô Tarawa vào ngày 18 tháng 9đảo Wake vào các ngày 56 tháng 10. Tại khu vực quần đảo Solomon, Birmingham hiện diện trong Trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta cùng với các tàu chị em Cleveland, Columbia, MontpelierDenver vào các ngày 89 tháng 11. Đây là hoạt động hạm đội chủ yếu đầu tiên mà lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Cleveland tham dự kể từ khi gia nhập hạm đội. Trong lúc ban ngày, máy bay Nhật đánh trúng Birmingham hai quả bom và một quả ngư lôi, khiến nó không thể tham gia trận đụng độ tàu nổi ban đêm với hạm đội Hải quân Đế quốc Nhật Bản diễn ra sau đó. Birmingham rút lui về Xưởng hải quân Mare Island để sửa chữa, vốn kéo dài cho đến ngày 18 tháng 2 năm 1944, trước khi nó gia nhập trở lại Hạm đội Thái Bình Dương.[2]

Birmingham đang cặp theo tàu sân bay Princeton đang cháy trong Trận chiến vịnh Leyte vào ngày 24 tháng 10 năm 1944

Được phân về Lực lượng Đặc nhiệm 57, Birmingham tham gia trận Saipan từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 4 tháng 8; trận chiến biển Philippine trong các ngày 1920 tháng 6; trận Tinian từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 1 tháng 8; trận Guam vào ngày 21 tháng 7 và đợt không kích quần đảo Philippine từ ngày 9 đến ngày 24 tháng 9. Sau đó nó phục vụ cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38 trong cuộc không kích Okinawa vào ngày 10 tháng 10; phía Bắc Luzon vào ngày 15 tháng 10; Đài Loan trong các ngày 1819 tháng 10 và trong trận chiến vịnh Leyte vào ngày 24 tháng 10. Trong trận chiến sau cùng này, Birmingham bị hư hại nghiêm trọng phần trên của cấu trúc thượng tầng do những vụ nổ bên chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Princeton mà nó đang dũng cảm tìm cách trợ giúp. Birmingham rút lui về Xưởng hải quân Mare Island để sửa chữa, kéo dài từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 1 năm 1945.[2]

Gia nhập trở lại Hạm đội Thái Bình Dương, chiếc tàu tuần dương hỗ trợ cho Trận Iwo Jima trong các ngày 45 tháng 3 năm 1945Trận Okinawa từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 5 tháng 5. Vào ngày 4 tháng 5, sau khi đánh trả thành công ba đợt không kích, nó bị hư hại lần thứ ba khi một máy bay tấn công cảm tử kamikaze Nhật Bản đánh trúng phía trước tàu. Rút lui về Trân Châu Cảng, con tàu được sửa chữa từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8.[2]

Birmingham gia nhập trở lại Đệ Ngũ hạm đội tại Okinawa vào ngày 26 tháng 8, và vào tháng 11 đã lên đường đi Brisbane, Australia. Nó quay trở lại San Francisco vào ngày 22 tháng 3 năm 1946 và được rút khỏi biên chế để đưa về lực lượng dự bị tại đây vào ngày 2 tháng 1 năm 1947. Birmingham được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3 năm 1959 rồi được tháo dỡ tại Long Beach, California.[2][3]

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Birmingham được tặng thưởng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[2][3]

Silver star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Đơn vị Tuyên dương Hải quân Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 8 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II
Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Friedman 1984, tr. 270.
  2. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Birmingham II (CL-62). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  3. ^ a b c Yarnall, Paul (12 tháng 4 năm 2020). “USS Birmingham (CL 62)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]