USS Reno (DD-303)
Tàu khu trục USS Reno (DD-303)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Reno (DD-303) |
Đặt tên theo | Walter E. Reno |
Xưởng đóng tàu | Bethlehem Shipbuilding Corporation, Union Iron Works, San Francisco |
Đặt lườn | 4 tháng 7 năm 1918 |
Hạ thủy | 22 tháng 1 năm 1919 |
Nhập biên chế | 23 tháng 7 năm 1920 |
Xuất biên chế | 18 tháng 1 năm 1930 |
Xóa đăng bạ | 8 tháng 7 năm 1930 |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 1931 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Clemson |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 314 ft 5 in (95,83 m) |
Sườn ngang | 31 ft 9 in (9,68 m) |
Mớn nước | 9 ft 10 in (3,00 m) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 35 kn (65 km/h) |
Tầm xa | 4.900 nmi (9.070 km; 5.640 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 122 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
USS Reno (DD-303) là một tàu khu trục lớp Clemson được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Thiếu tá Hải quân Walter E. Reno (1881-1917), người từng phục vụ trong Thế Chiến I và thiệt mạng do tai nạn va chạm với một tàu vận tải Anh. Reno ngừng hoạt động năm 1930 và bị tháo dỡ năm 1931 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Reno được đặt lườn vào ngày 4 tháng 7 năm 1918 tại xưởng tàu Union Iron Works của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 1 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô Kathryn Baldwin Anderson, con gái Thống đốc California Alden Anderson[2]; và được đưa ra hoạt động vào ngày 23 tháng 7 năm 1920. Mẹ của Thiếu tá Reno, bà L. D. Reno ở Eldon, Iowa, được mời đỡ đầu con tàu, nhưng đã từ chối vì lý do sức khỏe. Vợ góa của Thiếu tá Reno, bà Beatrice Tracy Reno, con gái của cựu Trợ lý bộ trưởng hải quân Frank Tracy, cũng từng được cân nhắc là người đỡ đầu cho con tàu.[3]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Được phân về Hạm đội Thái Bình Dương, Reno hoạt động dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ cho đến tháng 1 năm 1921, khi nó gia nhập các đơn vị khác của hạm đội trong một chuyến đi đến Valparaíso, Chile. Tiếp nối các hoạt động dọc theo vùng bờ Tây sau khi quay trở về, nó hoạt động giữa Washington và khu vực Nam California, thỉnh thoảng có những chuyến đi đến vùng quần đảo Hawaii hay vùng kênh đào Panama. Vào tháng 4 năm 1927, nó đi sang phía Đông đến tận vịnh Guantánamo, Cuba, và vào tháng 7 năm đó đã có mặt tại Prince Rupert, British Columbia tham dự lễ hội kỷ niệm 75 năm thành lập Canada.
Reno được cho xuất biên chế tại San Diego, California vào ngày 18 tháng 1 năm 1930. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 7 năm 1930 và nó bị tháo dỡ vào năm 1931 nhằm tuân thủ các điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71
- ^ Destroyer Reno Launched Here. Oakland Tribune. Oakland, California. Thursday, ngày 23 tháng 1 năm 1919. p. 4
- ^ Name a Destroyer Reno. Kansas City Star. Kansas City, Missouri. ngày 8 tháng 1 năm 1919. p. 24.
- Bài này có các trích dẫn từ nguồn en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: http://www.history.navy.mil/danfs/r4/reno-i.htm
- Bài này có các thông tin thu thập từ en:Naval Historical Center, vốn là tác phẩm xuất bản của Chính phủ Mỹ, nên thuộc phạm vi công cộng.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Destroyer Photo Index DD-303 USS RENO at www.navsource.org