Mụn trứng cá
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Mụn trứng cá | |
---|---|
Mụn mọc trên trán một thanh niên tuổi dậy thì | |
Chuyên khoa | khoa da liễu, y học gia đình |
ICD-10 | L70 |
ICD-9-CM | 706.0-706.1 |
Patient UK | Mụn trứng cá |
MeSH | D000152 |
Mụn trứng cá, thường được hiểu là mụn trứng cá thông thường (acne vulgaris), là bệnh da liễu được đặc trưng bởi tình trạng viêm khu trú vùng nang lông - tuyến bã. Cơ chế sinh bệnh được xác định cho đến thời điểm hiện nay là do: (I) sự tăng tiết bã nhờn, (II) sự sừng hóa (keratin hóa) bất thường của phễu nang lông, (III) sự liên quan của trực khuẩn kị khí gram dương Propionibacterium acnes, và (IV) các loại phản ứng viêm. Trong đó sự tăng tiết bã nhờn được coi là điều kiện cần của mụn trứng cá, còn phản ứng viêm được xem là yếu tố then chốt. Vai trò của phản ứng viêm quan trọng đến nỗi ngày nay người ta có xu hướng xem mụn trứng cá là một loại bệnh tự miễn. Biểu hiện của bệnh là nhiều loại tổn thương khác nhau như: nhân mụn (comedon), sẩn, mụn mủ, cục, nang... khu trú ở các vị trí tiết nhiều chất nhờn như mặt, lưng, ngực. Để thuận lợi cho công tác điều trị, bác sĩ lâm sàng thường chia tổn thương thành hai loại, đó là tổn thương viêm (mụn bọc, mụn mủ) và tổn thương không viêm (mụn đầu trắng, mụn đầu đen). Cần lưu ý đến tính chất đa dạng trong tổn thương mụn trứng cá để phân biệt với phát ban trứng cá, vốn thường có triệu chứng là các sang thương đơn dạng (sẩn), cùng lứa tuổi và có thể xuất hiện ở vị trí ngoài vùng tiết bã.
Mụn trứng cá thường không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, tuy nhiên, bệnh có xu hướng tồn tại dai dẳng, hay tái phát, với biến chứng thường gặp là sẹo lõm, hoặc sẹo lồi, gây mất thẩm mỹ, làm suy giảm đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Có sự liên hệ khá rõ ràng giữa bệnh lý mụn trứng cá và xu hướng trầm cảm (depression), đặc biệt là ở người trẻ [1][2].
Phân loại
[sửa | sửa mã nguồn]Tính nghiêm trọng của mụn trứng cá (tiếng Hy Lạp ἀκµή, "điểm" + tiếng Latin vulgaris, "phổ biến")[3] được phân loại thành ba mức độ nghiêm trọng: nhẹ, trung bình và nặng, để quyết định liệu pháp điều trị thích hợp.[4] Không có một thang điểm chính thức để xác định mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá.[5] Mụn trứng cá nhẹ được xác định khi chỉ có một số nang da bị tắc trên mặt và có các tổn thương viêm không thường xuyên.[4] Mụn trứng cá vừa được cho là xảy ra khi số lượng papule viêm nhiễm và pustule trên khuôn mặt cao hơn so với trường hợp nhẹ và xuất hiện trên thân cơ thể.[4] Mụn trứng cá nặng được cho là xảy ra khi các nodule (những điểm đau dữ dội nằm dưới da) là các tổn thương đặc trưng trên khuôn mặt và sự ảnh hưởng trên thân cơ thể rộng rãi.[4][6]
Các quả nang lớn trước đây được gọi là cysts. Thuật ngữ "nodulocystic" đã được sử dụng trong văn bản y học để mô tả các trường hợp nặng của viêm nhiễm mụn trứng cá.[6] Tuy nhiên, các quả nang thực sự hiếm khi xảy ra ở người mắc mụn trứng cá, và hiện nay ưu tiên sử dụng thuật ngữ "mụn trứng cá nặng chứa các quả nang".[6]
Acne inversa (dịch từ tiếng Latinh invertō, có nghĩa là "ngược lại") và acne rosacea (dịch từ tiếng Latinh rosa, có nghĩa là "màu hồng" + -āceus, có nghĩa là "tạo thành") không phải là các dạng mụn trứng cá và là các thuật ngữ khác được sử dụng để chỉ các tình trạng da khác nhau, tương ứng là hidradenitis suppurativa (HS) và rosacea.[7][8][9] Mặc dù HS có một số đặc điểm chung với mụn trứng cá, như xuất hiện nang da bị tắc bằng tàn dư tế bào da, tình trạng này khác biệt với mụn trứng cá và được coi là một rối loạn da riêng biệt.[7]
Dấu hiệu và triệu chứng
[sửa | sửa mã nguồn]Mụn trứng cá có những đặc điểm đặc trưng như sau: da tăng tiết dầu nhờn, hình thành vi kẽ nhỏ, xuất hiện mụn đầu đen, mụn đầu trắng, nốt đỏ, u nang (nốt đỏ lớn), mụn ủ mủ và thường để lại sẹo. Tình trạng mụn trứng cá có thể khác nhau tùy theo màu da của mỗi người.[10][11] Ngoài việc gây khó chịu về mặt vẻ ngoài, mụn trứng cá còn có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống xã hội của người bị mụn.[4]
Sẹo
[sửa | sửa mã nguồn]Sẹo mụn trứng cá được gây ra do sự viêm nhiễm trong tầng bì và ước tính ảnh hưởng đến 95% người mắc bệnh mụn trứng cá thông thường.[12] Quá trình lành sẹo bất thường và viêm nhiễm tầng bì tạo nên sẹo.[13] Sẹo thường xuất hiện nhiều nhất trên các vết mụn trứng cá nặng, nhưng cũng có thể xảy ra trên bất kỳ loại mụn trứng cá nào.[12] Sẹo mụn trứng cá được phân loại dựa trên cách tổn thương mụn trứng cá ảnh hưởng đến quá trình lành sẹo, gây ra sự tăng hoặc giảm mạnh mẽ collagen tại vị trí tổn thương.[14]
Sẹo mụn trứng cá loại atrophic là những sẹo mụn trứng cá mà đã mất mạch collagen sau quá trình lành sẹo và chiếm đa số (khoảng 75%) các loại sẹo mụn trứng cá.[13][14] Có ba loại phụ thuộc của sẹo mụn trứng cá loại atrophic là sẹo ice-pick, sẹo boxcar và sẹo rolling.[12] Sẹo boxcar có hình dạng lõm tròn hoặc hình bầu dục với ranh giới sắc nét và kích thước dao động từ 1.5–4 mm.[13] Sẹo ice-pick là những sẹo hẹp (ít hơn 2 mm), sẹo sâu đi vào tầng bì.[13] Sẹo rolling rộng hơn so với sẹo ice-pick và boxcar (4–5 mm) và có mẫu tổ chức sâu dạng sóng trên da.[13]
Sẹo mụn trứng cá loại hypertrophic là loại sẹo hiếm gặp và được đặc trưng bởi nồng độ collagen tăng sau quá trình lành sẹo bất thường.[13] Chúng được miêu tả là cứng và nổi lên so với da.[13][15] Sẹo hypertrophic giữ nguyên trong ranh giới ban đầu của vết thương, trong khi sẹo keloid có thể tạo mô sẹo bên ngoài các ranh giới này.[13] Sẹo keloid từ mụn trứng cá thường xảy ra nhiều hơn ở nam giới và người có làn da sậm màu, và thường xuất hiện trên thân hình.[13]
Vào tháng 11 năm 2021, một nghiên cứu đã được công bố[16] tiết lộ sự đồng thuận của 24 bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ và bác sĩ da liễu nổi tiếng trên thế giới về các thiết bị sử dụng năng lượng hiệu quả nhất để điều trị sẹo mụn trứng cá.[17]
Vết thâm sắc tố
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi một vết thương mụn trứng cá viêm nhiễm đã điều trị, thường xảy ra hiện tượng da vùng đó tối màu, được gọi là tăng sắc tố sau viêm (PIH). Quá trình viêm nhiễm kích thích tế bào da sản xuất sắc tố đặc biệt (gọi là tế bào melanocyt) tạo ra nhiều sắc tố melanin hơn, dẫn đến sự tối màu của da.[18] PIH xảy ra thường xuyên hơn ở những người có màu da sậm màu.[19] Sẹo có sắc tố là thuật ngữ phổ biến để chỉ PIH, nhưng nó có thể gây hiểu lầm vì cho rằng thay đổi màu sắc là vĩnh viễn. Thường, PIH có thể được ngăn chặn bằng cách tránh kích thích vùng viêm và có thể mờ đi theo thời gian. Tuy nhiên, nếu các lớp da sâu bị ảnh hưởng, PIH chưa được điều trị có thể kéo dài trong thời gian từ vài tháng đến nhiều năm, hoặc thậm chí có thể là vĩnh viễn.[20] Ngay cả việc tiếp xúc da với tia tử ngoại mặt trời cực tiểu cũng có thể duy trì tình trạng sắc tố tăng.[18] Sử dụng hàng ngày kem chống nắng có chỉ số SPF 15 trở lên có thể giảm thiểu nguy cơ này.[20] Các chất làm trắng như axit azelaic, arbutin hoặc các chất khác có thể được sử dụng để cải thiện sắc tố tăng.[21]
Điều trị
[sửa | sửa mã nguồn]Việc điều trị nhằm giảm quần thể vi khuẩn trong nang lông, giảm sinh bã nhờn, giảm viêm, loại bỏ lớp keratin che lấp nang. Các thuốc dùng gồm có các chất ly giải keratin và chất kháng khuẩn. Khi thuốc bôi ngoài không có tác dụng, cần dùng thuốc uống, đáp ứng với thuốc thường chậm và phải điều trị lâu dài. Kinh nghiệm điều trị: Trong thời gian điều trị bệnh, bệnh nhân tuyệt đối không được sờ hay nặn mụn gây viêm nhiễm lan rộng (bội nhiễm) gây ảnh hưởng đến kết quả điều trị.[cần dẫn nguồn]
- Trứng cá nhẹ: Dùng thuốc bôi ngoài, đặc biệt là benzoyl peroxid, chất kháng khuẩn và retinoid. Acid azelaic có thể dùng thay thế benzoyl peroxid. Khi phối hợp retinoid với kháng sinh erythromycin sẽ hiệp đồng tác dụng, nhanh chóng cho hiệu quả điều trị
Các thuốc kháng khuẩn bôi ngoài cũng là thuốc đầu tiên dùng đến sau khi liệu pháp benzoyl peroxid không hiệu quả, dùng các dung dịch tetracylin, clindamycin, erthromycin để bôi ngoài, và các chất này có tác dụng tương đương nhau. Dùng thuốc kháng khuẩn bôi ngoài chỉ nên kéo dài 10 đến 12 tuần, không dùng đồng thời thuốc bôi ngoài với thuốc uống hay loại nọ kế tiếp loại kia
- Trứng cá vừa: Dùng thuốc kháng khuẩn đường uống là tốt nhất, kết hợp với thuốc bôi ngoài. Tất cả các thuốc kháng khuẩn được dùng ít nhất trong 3 tháng, có những trường hợp phải điều trị tới 2 năm hay lâu hơn nữa. Đối với các bệnh nhân nữ có trứng cá vừa nhưng phải dùng thuốc tránh thai, thì nên dùng thuốc tránh thai chứa một progrestogen không androgen nhưng cần hết sức lưu ý tác dụng phụ khi dùng đường uống kéo dài.
- Trứng cá nặng: Thường dùng isotretionin theo đường uống, nếu những bệnh nhân không dùng được loại thuốc này có thể dùng thuốc kháng khuẩn với liều cao. Đối với những bệnh nhân nữ chống chỉ định dùng estrogen có thể dùng spironolacton, dựa vào tính kháng androgen của nó, kết hợp dùng thuốc bôi ngoài trứng cá nhẹ.
Tiến triển chung của trứng cá
[sửa | sửa mã nguồn]Đa số tự khỏi. Một số trường hợp có thể kèm theo các rối loạn như nhiễm trùng, trứng cá đỏ, viêm tổ chức dưới da. Nếu tổn thương mọc quanh miệng mũi, có mủ, khi nặn không vô khuẩn có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm xoang tĩnh mạch nông.
Cơ chế bệnh sinh
[sửa | sửa mã nguồn]Mụn trứng cá được hình thành dưới tác động của 3 yếu tố chính:
Bình thường chất bã được nang lông tuyến bã tiết ra làm da, lông, tóc ẩm, mềm mại, mượt mà. Trong trứng cá, do nội tiết tố androgen của cơ thể, đặc biệt là testosteron tiết ra nhiều sẽ gắn vào các thụ thể đặc hiệu có trên bề mặt các tế bào tuyến bã, kích thích tuyến bã phát triển, giãn rộng làm tăng bài tiết chất bã.
Bình thường các tế bào của tuyến bã và cổ nang lông khi chết sẽ được đào thải ra ngoài qua cổ nang lông. Trong trứng cá, các tế bào này không được đào thải sẽ gây bít tắc cổ nang lông làm chất nhờn tích tụ lại và làm phình tuyến bã.
P.acnes hiện diện rất nhiều trên da của bệnh nhân trứng cá. Các vi khuẩn này sẽ chuyển hóa các acid béo tự do có trong tế bào và chất nhờn bị tích tụ làm viêm tấy nang lông và cổ nang lông tạo nên mụn trứng cá dạng sẩn, mụn mủ, cục và nang.
Một số yếu tố khác liên quan đến hình thành mụn trứng cá
[sửa | sửa mã nguồn]- Tuổi: 90% trường hợp ở lứa tuổi 13-19 (tuổi dậy thì), sau đó bệnh giảm dần. Nhưng trứng cá có thể bắt đầu ở tuổi 20-30 hoặc thậm chí muộn hơn ở tuổi 50-59 (trung niên).
- Giới: Nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ nữ/nam ≈2/1, nhưng bệnh ở nam giới thường nặng hơn nữ
- Yếu tố gia đình: 50% bệnh nhân có tiền sử gia đình
- Yếu tố thời tiết, chủng tộc: khí hậu nóng ẩm, khô hanh liên quan đến bệnh trứng cá, người da trắng và da vàng bị trứng cá nhiều hơn người da đen.
- Yếu tố nghề nghiệp: Khi tiếp xúc với dầu mỡ, với ánh nắng nhiều….làm tăng khả năng bị bệnh
- Yếu tố stress: có thể gây nên bệnh hoặc làm nặng thêm bệnh trứng cá
- Chế độ ăn: một số thức ăn có thể làm tăng nặng bệnh trứng cá như sôcôla, đường, bơ, cà phê…và một số thức ăn liên quan đến dầu mỡ và đường.
- Các bệnh nội tiết: một số bệnh Cushing, bệnh đường giáp trạng, bệnh buồng trứng đa nang….làm tăng trứng cá.
- Thuốc: Một số thuốc làm tăng trứng cá như corticoid, nhóm halogen…
- Một số nguyên nhân tại chỗ: vệ sinh da mặt, chà xát, nặn bóp không đúng phương pháp, lạm dụng mỹ phẩm và chất hóa học.
Điều trị
[sửa | sửa mã nguồn]Mụn trứng cá thực sự làm suy giảm nặng nề chất lượng cuộc sống (quality of life). Thậm chí mụn trứng cá thể nhẹ cũng có thể gây ra nhiều đau khổ. Vì vậy, điều quan trọng là cần thiết phải điều trị mụn trứng cá hơn là để cho bệnh tự thoái lui.[2]
Mục tiêu
[sửa | sửa mã nguồn]- Chống tiết nhiều chất bã
- Chống dày sừng phễu nang lông
- Chống nhiễm khuẩn
- Kháng viêm
Thuốc điều trị
[sửa | sửa mã nguồn]Chia làm 4 nhóm chính:
- Nhóm thuốc làm bạt sừng, bong vảy (keratolytics): Ví dụ mỡ salicylic acid 5-10%: có tác dụng làm mỏng lớp sừng trên bề mặt da, giúp chất bã thoát ra ngoài dễ dàng hơn. Nhóm thuốc này thích hợp để làm bong các nút sừng ở các loại mụn đầu trắng, mụn bọc nhỏ.
- Nhóm thuốc kháng sinh (antibiotic) và kháng khuẩn (antibactarial): Thường dùng các kháng sinh như clindamycin, erythromycin, kháng khuẩn chống viêm như benzoyl peroxide. Dùng cả đường toàn thân và tại chỗ.
- Nhóm vitamin A acid (retinoid): Có tác dụng chống sừng hoá cổ tuyến bã, do đó ngăn ngừa hình thành các nút sừng tại cổ tuyến bã, giảm tắc nghẽn chất bã trong tuyến bã. Nên dùng kết hợp với nhóm kháng sinh để đạt hiệu quả điều trị cao hơn
- Nhóm thuốc nội tiết (hormone): Liệu trình điều trị thường kéo dài từ 3 - 6 tháng. Không nên dùng loại thuốc tránh thai có thành phần progesterol đơn thuần vì loại này thường làm tăng nặng bệnh trứng cá. Nên dùng loại kết hợp progesterol tổng hợp thế hệ 2 như levonorgestrel, ethinyloestradiol cho các trường hợp trứng cá vừa và nặng.
Tư vấn
[sửa | sửa mã nguồn]- Hạn chế dùng thuốc có brom, corticoid
- Rửa mặt bằng sữa rửa mặt phù hợp với da.
- Ăn ít đường, sôcôla, chất béo, thức ăn có liên quan tới dầu mỡ, đồ ngọt...
- Tránh làm việc quá sức, hạn chế stress.
- Khi bị bệnh mụn trứng cá, nếu nặn phải có phương pháp nếu không thì sẽ lây lan qua các vùng lân cận ở da.
- Bảo vệ da trước ánh nắng mặt trời bởi vì trong ánh nắng mặt trời kích thích vi khuẩn gây mụn trên da hoạt động mạnh, khiến tình trạng mụn thêm trầm trọng.
- Sử dụng các mặt nạ được làm từ các nguyên liệu tự nhiên như nghệ, dưa leo, lô hội,…sẽ có công dụng kháng viêm
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Acne: Signs and symptoms”. Truy cập 27 tháng 9 năm 2015.
- ^ a b Acne Can Change the Way You See the World. http://www.skincarephysicians.com/acnenet/socimpct.html
- ^ “"acne", "vulgar"”. Oxford English Dictionary (CD-ROM) (ấn bản thứ 2). Oxford: Oxford University Press. 2009.
- ^ a b c d e Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênBMJ2013
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênZaenglein2018
- ^ a b c Zaenglein AL, Graber EM, Thiboutot DM (2012). “Chapter 80 Acne Vulgaris and Acneiform Eruptions”. Trong Goldsmith, Lowell A., Katz, Stephen I., Gilchrest, Barbara A., Paller, Amy S., Lefell, David J., Wolff, Klaus (biên tập). Fitzpatrick's Dermatology in General Medicine (ấn bản thứ 8). New York: McGraw-Hill. tr. 897–917. ISBN 978-0-07-171755-7.
- ^ a b Dessinioti C, Katsambas A, Antoniou C (May–June 2014). “Hidradenitis suppurrativa (acne inversa) as a systemic disease”. Clinics in Dermatology (Review). 32 (3): 397–408. doi:10.1016/j.clindermatol.2013.11.006. PMID 24767187.
- ^ Moustafa FA, Sandoval LF, Feldman SR (tháng 9 năm 2014). “Rosacea: new and emerging treatments”. Drugs (Review). 74 (13): 1457–65. doi:10.1007/s40265-014-0281-x. PMID 25154627. S2CID 5205305.
- ^ Dessinioti C, Antoniou C, Katsambas A (January–February 2014). “Acneiform eruptions”. Clinics in Dermatology (Review). 32 (1): 24–34. doi:10.1016/j.clindermatol.2013.05.023. PMID 24314375.
- ^ Adityan B, Kumari R, Thappa DM (tháng 5 năm 2009). “Scoring systems in acne vulgaris” (PDF). Indian Journal of Dermatology, Venereology and Leprology (Review). 75 (3): 323–6. doi:10.4103/0378-6323.51258. PMID 19439902.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênZhao2012
- ^ a b c Fife D (Tháng 4 2016). “Đánh giá Sẹo Mụn Trứng Cá: Làm thế nào để đánh giá và thông báo cho bệnh nhân”. Các Khoản tiền dùng để mua đồ Dermatologic (Đánh giá). 34 (2): 207–13. doi:10.1016/j.det.2015.11.009. PMID 27015781. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ a b c d e f g h i Levy LL, Zeichner JA (Tháng 10 2012). “Quản lý sẹo mụn trứng cá, phần II: một bài đánh giá so sánh về các phương pháp không sử dụng laser, tiếp cận ít xâm lấn”. American Journal of Clinical Dermatology (Đánh giá). 13 (5): 331–40. doi:10.2165/11631410-000000000-00000. PMID 22849351. S2CID 41448330. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ a b Sánchez Viera M (Tháng 7 2015). “Quản lý sẹo mụn trứng cá: thực hiện trách nhiệm chăm sóc cho bệnh nhân”. The British Journal of Dermatology (Đánh giá). 172 Suppl 1 (Supplement 1): 47–51. doi:10.1111/bjd.13650. PMID 25597636. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ Sobanko JF, Alster TS (Tháng 10 2012). “Quản lý sẹo mụn trứng cá, phần I: một bài đánh giá so sánh các phương pháp phẫu thuật bằng laser”. American Journal of Clinical Dermatology (Đánh giá). 13 (5): 319–30. doi:10.2165/11598910-000000000-00000. PMID 22612738. S2CID 28374672. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ Salameh, Fares; Shumaker, Peter R.; Goodman, Greg J.; Spring, Leah K.; Seago, Meghan; Alam, Murad; Al‐Niaimi, Firas; Cassuto, Daniel; Chan, Henry HL; Dierickx, Christine; Donelan, Matthias; Gauglitz, Gerd G.; Haedersdal, Merete; Krakowski, Andrew C.; Manuskiatti, Woraphong; Norbury, William B.; Ogawa, Rei; Ozog, David M.; Paasch, Uwe; Victor Ross, E.; Clementoni, Matteo Tretti; Waibel, Jill; Bayat, Ardeshir; Goo, Boncheol Leo; Artzi, Ofir (2021). “Energy‐based devices for the treatment of acne scars: 2021 international consensus recommendations”. Lasers in Surgery and Medicine. 54 (1): 10–26. doi:10.1002/lsm.23484. PMID 34719045. S2CID 240355253.
- ^ “International Consensus Recommend Acne Scar Treatments”. Dermatology Times. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2021.
- ^ a b Chandra M, Levitt J, Pensabene CA (Tháng 5 2012). “Hydroquinone therapy for post-inflammatory hyperpigmentation secondary to acne: not just prescribable by dermatologists”. Acta Dermato-Venereologica (Đánh giá). 92 (3): 232–5. doi:10.2340/00015555-1225. PMID 22002814. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênYin2014
- ^ a b Callender VD, St Surin-Lord S, Davis EC, Maclin M (Tháng 4 2011). “Postinflammatory hyperpigmentation: etiologic and therapeutic considerations”. American Journal of Clinical Dermatology (Đánh giá). 12 (2): 87–99. doi:10.2165/11536930-000000000-00000. PMID 21348540. S2CID 9997519. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ Liyanage, Achala; Liyanage, Gayani; Sirimanna, Ganga; Schürer, Nanna (Tháng 2 2022). “Comparative Study on Depigmenting Agents in Skin of Color”. The Journal of Clinical and Aesthetic Dermatology. 15 (2): 12–17. ISSN 1941-2789. PMC 8884189. PMID 35309879. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp)
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Thuốc biệt dược & cách sử dụng, phần chuyên khảo, DS.Phạm Thiệp-DS.Vũ Ngọc Thuý, Nhà xuất bản Y Học 2005
- Da liễu học (dùng cho đào tạo bác sĩ đa khoa), PGS.TS.Phạm Văn Hiển, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2009