Lamphun
Thái lan
Lamphun ลำพูน | |
---|---|
Thị trấn | |
Tọa độ: 18°35'11"N 99°0'43"E / 18.58639°N 99.01194°E / 18.58639; 99.01194Tọa độ: 18°35'11"N 99°0'43"E / 18.58639°N 99.01194°E | |
Nước | Thái Lan |
Tỉnh | |
Chính phủ | |
• Loại |
Đô thị trấn |
Múi giờ |
Lamphun (tiếng Thái: ลำพูน, phát âm tiếng Thái: [lām.pʰūːn]) là một thị trấn ở miền bắc Thái Lan, thủ phủ của tỉnh Lamphun. Nó bao gồm toàn bộ tambon Nai Mueang của huyện Mueang Lamphun. Tính đến năm 2006, nó có dân số 14.030 người. Lamphun nằm cách Bangkok 665 km về phía bắc và cách Chiang Mai 19 km về phía nam.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Lamphun được thành lập bởi Hoàng hậu Chama Thevi là thủ đô của Vương quốc Haripunchai, vương quốc cuối cùng và bắc cực nhất trong khu vực hiện đang hình thành Thái Lan.[1]:77 Khoảng 25 km về phía nam Chiang Mai, nó được xây dựng theo hình dạng vỏ ốc xà cừ, sau sông Khương ở phía đông của nó và chia cho những con hào tại các điểm còn lại của la bàn.
Nữ hoàng Chama Thevi được nhớ đến trong tên của bà, được cho là nơi an nghỉ của tro cốt của bà. Gần chợ chính của thị trấn ở phía tây nam của thành phố là một bức tượng của nữ hoàng mà tại đó các dịch vụ vẫn được thực hiện ngày nay bởi công dân.
Trong khi vẫn còn sống ở phía bắc vua Mangrai đã được một số thương nhân đến từ Vương quốc Mon viếng thăm, và nghe về sự giàu có của Lamphun, ông quyết tâm chinh phục nó, thậm chí chống lại lời khuyên của các ủy viên hội đồng.
Vì bị coi là không thể chiếm được thành phố bằng vũ lực, ông đã gửi một thương gia lành nghề tên Ai Fa để có được sự tự tin của vua Yi Ba, và trong thời gian ông trở thành thủ tướng và quản lý để làm suy yếu quyền lực của nhà vua.
Năm 1281, với những người trong tình trạng bất mãn, Mangrai đã đánh bại vương quốc Mon, và thêm vào thành phố và sự giàu có của nó cho vương quốc của mình, trong khi Yi Ba, vị vua cuối cùng của Hariphunchai, buộc phải chạy về phía nam tới Lampang. Lamphun sau đó được sáp nhập vào vương quốc Lanna mới. Ai Fa sau đó được bổ nhiệm làm vua, và Vua Mangrai bắt đầu xây dựng pháo đài Wiang Kum Kam làm thủ đô mới của mình.
Thị trấn được bao quanh bởi vùng nông thôn xanh tốt với những cánh đồng lúa và vườn cây ăn trái của loại trái cây nổi tiếng, nhãn, được tổ chức trong một lễ hội vào mỗi tháng Tám.
Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Thị trấn nằm trong thung lũng sông Ping, giữa dãy Thanon Thong Chai ở phía tây và dãy Khun Tan ở phía đông.
Khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Dữ liệu khí hậu của Lamphun (1981–2010) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Month | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 35.7 (96.3) |
38.5 (101.3) |
41.7 (107.1) |
42.6 (108.7) |
42.3 (108.1) |
40.8 (105.4) |
38.1 (100.6) |
37.7 (99.9) |
35.5 (95.9) |
35.8 (96.4) |
35.5 (95.9) |
34.7 (94.5) |
42.6 (108.7) |
Trung bình cao °C (°F) | 30.8 (87.4) |
33.8 (92.8) |
36.7 (98.1) |
37.9 (100.2) |
35.0 (95) |
33.3 (91.9) |
32.8 (91) |
32.4 (90.3) |
32.1 (89.8) |
31.5 (88.7) |
30.4 (86.7) |
29.2 (84.6) |
33.0 (91.4) |
Trung bình ngày, °C (°F) | 21.7 (71.1) |
24.3 (75.7) |
27.7 (81.9) |
30.1 (86.2) |
28.7 (83.7) |
28.2 (82.8) |
27.8 (82) |
27.3 (81.1) |
26.9 (80.4) |
26.1 (79) |
23.9 (75) |
21.3 (70.3) |
26.2 (79.2) |
Trung bình thấp, °C (°F) | 14.3 (57.7) |
15.7 (60.3) |
19.4 (66.9) |
23.2 (73.8) |
24.0 (75.2) |
24.3 (75.7) |
24.0 (75.2) |
23.8 (74.8) |
23.4 (74.1) |
22.3 (72.1) |
19.0 (66.2) |
15.1 (59.2) |
20.7 (69.3) |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | 7.8 (46) |
9.2 (48.6) |
12.5 (54.5) |
17.0 (62.6) |
18.2 (64.8) |
21.1 (70) |
21.0 (69.8) |
20.8 (69.4) |
19.1 (66.4) |
13.8 (56.8) |
9.3 (48.7) |
3.5 (38.3) |
3.5 (38.3) |
Lượng mưa, mm (inch) | 2.8 (0.11) |
4.9 (0.193) |
13.1 (0.516) |
44.5 (1.752) |
154.8 (6.094) |
124.2 (4.89) |
117.0 (4.606) |
172.7 (6.799) |
208.2 (8.197) |
110.1 (4.335) |
44.1 (1.736) |
7.4 (0.291) |
1,003.8 (39.52) |
Số ngày mưa trung bình | 0.7 | 1.0 | 2.0 | 5.9 | 14.5 | 15.3 | 16.2 | 17.8 | 17.8 | 11.7 | 4.6 | 1.2 | 108.7 |
% độ ẩm | 70 | 59 | 54 | 57 | 72 | 76 | 77 | 80 | 83 | 83 | 80 | 75 | 72 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 272.8 | 274.0 | 294.5 | 279.0 | 198.4 | 117.0 | 120.9 | 117.8 | 144.0 | 182.9 | 216.0 | 254.2 | 2,471.5 |
Số giờ nắng trung bình hàng ngày | 8.8 | 9.7 | 9.5 | 9.3 | 6.4 | 3.9 | 3.9 | 3.8 | 4.8 | 5.9 | 7.2 | 8.2 | 6.8 |
Nguồn #1: Cục Khí tượng Thái Lan[2] | |||||||||||||
Nguồn #2: Văn phòng Quản lý Nước và Thủy văn, Cục Thủy lợi Hoàng gia (mặt trời và độ ẩm)[3] |
Tài liệu tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ . ISBN 978-0-8248-0368-1.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ "Climatological Data for the Period 1981–2010". Thai Meteorological Department. p. 3. Truy cập 31 July 2016.
- ^ "ปริมาณการใช้น้ำของพืชอ้างอิงโดยวิธีของ Penman Monteith (Reference Crop Evapotranspiration by Penman Monteith)" (PDF) (in Thai). Office of Water Management and Hydrology, Royal Irrigation Department. p. 20. Truy cập 31 July 2016.