Bước tới nội dung

Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ FIFA Club World Cup)
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ
Thành lập2000; 24 năm trước (2000)
Khu vựcQuốc tế (FIFA)
Số đội32 (từ 6 liên đoàn châu lục)
Đội vô địch
hiện tại
Anh Manchester City
(lần thứ 1)
Câu lạc bộ
thành công nhất
Tây Ban Nha Real Madrid
(5 lần)
Truyền hìnhDanh sách các đài truyền hình
Trang webwww.fifa.com/clubworldcup/
Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2025

Cúp bóng đá thế giới các câu lạc bộ (tiếng Anh: FIFA Club World Cup), trước đây được gọi là FIFA Club World Championship (Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ), là một giải đấu bóng đá nam quốc tế được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá toàn cầu, quy tụ các câu lạc bộ vô địch từ các châu lục (châu Âu, châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, Bắc Trung Mỹ, châu Đại Dương) cùng với đội chủ nhà.

Giải đấu lần đầu tiên được tổ chức tại Brasil vào năm 2000, và được thi đấu song song với Cúp Liên lục địa (hay còn được biết đến với tên gọi Cúp châu Âu/Nam Mỹ) – một giải đấu được đồng tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) và Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL) dành cho đội vô địch UEFA Champions LeagueCopa Libertadores. Trong các năm 2001 tới 2004, giải đấu không được tổ chức vì nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là do sự sụp đổ của đối tác tiếp thị của FIFA là International Sport and Leisure. Năm 2005, Cúp Liên lục địa được hợp nhất vào FIFA Club World Championship; cũng từ đây giải được tổ chức hàng năm, và sau đó lấy tên là FIFA Club World Cup kể từ năm 2006.

Sau giải đấu năm 2023, FIFA Club World Cup được cải tiến để trở thành giải đấu với chu kỳ 4 năm 1 lần, bắt đầu từ năm 2025. Thể thức mới bao gồm 32 câu lạc bộ thi đấu tại một nước chủ nhà, với 12 đội châu Âu, 6 đội Nam Mỹ, 4 đội châu Á, 4 đội châu Phi, 4 đội Bắc, Trung Mỹ và Caribe, 1 đội châu Đại Dương, và 1 đội đại diện quốc gia chủ nhà. Các đội được chia thành tám bảng 4 đội, thi đấu ba trận trong bảng để chọn hai đội đứng đầu vào vòng đấu loại trực tiếp, từ vòng 16 đội cho đến trận chung kết.

Đương kim vô địch hiện tại của giải đấu là Manchester City của Anh, đội đã đánh bại Fluminense của Brazil 4–0 trong trận chung kết năm 2023.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn mới thành lập giải và bị hoãn (2000 – 2006)

[sửa | sửa mã nguồn]

Kế hoạch tổ chức FIFA Club World Cup đã được vạch ra từ nhiều năm trước. Theo cựu chủ tịch FIFA Sepp Blatter, ý tưởng thành lập giải đấu được trình bày với Ủy ban điều hành FIFA vào tháng 12/1993 bởi chủ tịch A.C.Milan Silvio Berlusconi tại Las Vegas .

Khi các giải đấu cấp CLB ở các Liên đoàn được hình thành và phát triển ổn định, FIFA nảy ra ý định tổ chức giải đấu Club World Championship. Vào ngày 3/9/1997, Brasil được chọn làm nước chủ nhà của giải đấu dự kiến được diễn ra vào năm 1999. Ban đầu giải đấu có kế hoạch tổ chức vào năm 1999 khi chọn ra các nhà vô địch của năm 1998 tranh tài nhưng giải bị hoãn một năm. Sau đó giải có sự tham gia của các câu lạc bộ là Sport Club Corinthians Paulistat, Vasco da Gama (Brasil), Manchester United (Anh), Necaxa (Mexico), Raja Casablanca (Maroc), Real Madrid (Tây Ban Nha), Al-Nassr (Ả Rập Xê Út) và South Melbourne (Australia).

Ở phiên bản tiếp theo được dự kiến tổ chức vào mùa hè 2001 tại Tây Ban Nha, có 12 CLB tham dự và được bốc thăm vào tháng 3/2001 tại La Coruna. Tuy nhiên vào ngày 18/5/2001, do có nhiều yếu tố tác động, chủ yếu là do sự sụp đổ của đối tác FIFA là International Sport and Leisure. Các đội tham dự giải đấu năm 2001 được FIFA bồi thường 750.000 USD và LĐBĐ Tây Ban Nha cũng nhận được 1 triệu USD tiền bồi thường. Sau cúp liên lục địa cuối cùng vào năm 2004, FIFA Club World Championship được tái khởi động lại và giải tiếp theo được diễn ra tại Nhật Bản vào năm 2005.

Thể thức loại trực tiếp (2005 – 2022)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ở giải đấu năm 2005, thời gian thi đấu tại giải được rút ngắn lại so với giải đấu trước và chỉ có 6 đội vô địch từ các Liên đoàn tham dự. Đại diện đến từ UEFA và CONMEBOL được đặt cách vào bán kết của giải. São Paulo là nhà vô địch của giải khi đánh bại Liverpool 1–0 trong trận chung kết, tiền vệ Mineiro cũng là cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong một trận chung kết của FIFA Club World Cup.

Pep Guardiola được tung hô sau khi Barcelona giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2011, đè bẹp Santos 4–0 trong trận chung kết.

Tại Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2006, giải đấu đầu tiên có 7 đội tham gia khi nước chủ nhà của giải có một đại diện tham dự. Urawa Red Diamonds, nhà vô địch AFC Champions League 2006 cũng là đội bóng đến từ nước chủ nhà Nhật Bản nên đội á quân Sepahan của Iran là đại diện đến từ châu Á tham dự giải.

Đến năm 2010, đội bóng ngoài châu Âu và Nam Mỹ đầu tiên lọt vào chung kết FIFA Club World Cup là TP Mazembe của CHDC Congo. Đội bóng châu Phi đánh bại Internacional của Brasil trong trận bán kết để đi vào lịch sử của giải đấu. Tuy nhiên đội đã nhận thất bại dễ dàng 0-3 trước Inter Milan trong trận chung kết.

Corinthians giành danh hiệu thế giới thứ hai sau khi đánh bại Chelsea 1–0 trong trận chung kết, kết thúc một năm chứng kiến ​​họ bất bại trong các trận đấu quốc tế với chỉ bốn bàn thua.

Tại giải đấu năm 2013, chủ nhà Raja Casablanca của Maroc tiến một mạch đến trận chung kết kể từ vòng đầu tiên gặp Auckland City của New Zealand. Họ trở thành đội bóng châu Phi thứ 2 tiến đến trận chung kết giải đấu khi đánh bại Atlético Mineiro của Brasil ở bán kết. Raja Casablanca là đội chủ nhà thứ 2 trong lịch sử giải đấu góp mặt ở trận chung kết và họ chịu thất bại trước Bayern Munich bởi đẳng cấp quá chênh lệch giữa hai đội.

Năm 2016, một đội chủ nhà khác đi vào lịch sử của giải khi Kashima Antlers trở thành đội bóng châu Á đầu tiên thi đấu trận chung kết FIFA Club World Cup. Thậm chí, đại diện của J1 League suýt gây sốc khi dẫn trước Real Madrid 2–1 ở đầu hiệp 2 trước khi trận đấu kéo dài thêm hai hiệp phụ và để thua ngược 2–4 với cú Hat-trick của Cristiano Ronaldo. Mặc dù vậy, đội bóng của Nhật Bản vẫn để lại ấn tượng khi suýt trở thành đội đầu tiên ngoài châu Âu và Nam Mỹ từng vô địch giải đấu.

Năm 2018, Al-Ain của nước chủ nhà Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất trở thành đội bóng châu Á thứ hai giành quyền chơi một trận chung kết FIFA Club World Cup. Bị đánh giá thấp hơn Real Madrid, không bất ngờ khi đội đã nhận thất bại với tỉ số 1–4.

Năm 2019, Liverpool giành chiến thắng chung cuộc 1–0 sau hiệp phụ trước Flamengo của Brasil qua đó giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần đầu tiên.

Năm 2020, Bayern Munich giành cúp vô địch lần thứ 2 sau năm 2013 khi đánh bại Tigres UANL của Mexico trong trận chung kết.

Năm 2021, giải đấu được tổ chức tại Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất. Chelsea giành chức vô địch FIFA Club World Cup đầu tiên khi thắng 2–1 trước Palmeiras của Brasil sau 120 phút trong trận chung kết.

Năm 2022, giải đấu được tổ chức tại Maroc. Real Madrid giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần thứ 5 khi thắng 5–3 trước Al Hilal của Ả Rập Xê Út trong trận chung kết.

Mở rộng số đội tham dự (kể từ năm 2021)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối năm 2016, Chủ tịch FIFA Gianni Infantino đã đề nghị mở rộng giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ thành 32 đội bắt đầu vào năm 2019 và diễn ra vào mùa hè để giải đấu hấp dẫn hơn và cân bằng trình độ các đội tham gia, nhằm thu hút các nhà tài trợ cũng như tăng bản quyền truyền hình. Vào cuối năm 2017, FIFA đã thảo luận các đề xuất để mở rộng giải đấu tới 24 đội và diễn ra bốn năm một lần vào năm 2021, thay thế cho FIFA Confederations Cup.[1][2][3]

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, định dạng và lịch thi đấu mới của giải đấu đã được thông qua tại cuộc họp của Hội đồng FIFA tại Miami, Florida, Hoa Kỳ. Vì theo lịch thi đấu quốc tế FIFA, khoảng thời gian từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 8 tháng 6 năm 2021 sẽ dành cho vòng loại FIFA World Cup 2022Chung kết UEFA Nations League 2021, giải đấu sẽ diễn ra từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7, thay thế cho FIFA Confederations Cup 2021. Cúp bóng đá châu Phi năm 2021Cúp vàng CONCACAF 2021 sau đó sẽ được phân bố thời gian thi đấu từ ngày 5 đến ngày 31 tháng 7 năm 2021 trong Lịch thi đấu quốc tế FIFA.

Vào tối 16-12, Chủ tịch FIFA Gianni Infantino cũng cho biết giải đấu sẽ không diễn ra hằng năm như hiện tại, mà sẽ được tổ chức 4 năm/lần.

"Đó sẽ là kỳ FIFA Club World Cup của 32 đội, 4 năm/lần và là lần đầu tiên nó sẽ diễn ra vào mùa hè. Đó sẽ là vào năm 2025. Những đội bóng mạnh nhất thế giới sẽ được mời để tham dự", ông Infantino phát biểu.

Thể thức thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Thể thức hiện tại của giải đấu bao gồm 7 đội tham dự diễn ra trong 2 tuần ở 1 nước chủ nhà; đội vô địch của AFC Champions League (châu Á), CAF Champions League (châu Phi), CONCACAF Champions League (Bắc Mỹ), Copa Libertadores (Nam Mỹ), OFC Champions League (châu Đại Dương) và UEFA Champions League (châu Âu) năm đó, cùng với đội vô địch quốc gia của nước chủ nhà, tham dự giải đấu theo thể thức loại trực tiếp. Đội vô địch quốc gia của nước chủ nhà sẽ gặp đội vô địch châu Đại Dương trong 1 trận play-off; đội giành chiến thắng sẽ cùng với các đội vô địch châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ tham dự vòng tứ kết. Các đội thắng ở tứ kết sẽ gặp các đội vô địch châu Âu và Nam Mỹ, những đội được vào thẳng bán kết. Hai đội thua ở tứ kết sẽ đá trận tranh hạng 5, hai đội thua ở bán kết đá trận tranh hạng 3 và trận đấu cuối cùng của giải là trận chung kết giữa hai đội giành chiến thắng ở vòng bán kết.

Kể từ mùa giải 2025, thể thức thi đấu có sự thay đổi lớn. Giải sẽ chuyển sang thi đấu vào mùa hè, theo chu kỳ 4 năm một lần và tăng số đội tham dự lên 32 đội. Giải cũng sẽ được bổ sung thêm vòng bảng, với 8 bảng 4 đội, thi đấu vòng tròn chọn đội nhất bảng vào vòng tứ kết.

Bảng thành tích

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính tới năm 2023, FIFA Club World Cup đã có 11 câu lạc bộ vô địch khác nhau. Real Madrid (Tây Ban Nha) là đội thành công nhất với 5 chức vô địch. Các nhà vô địch khác bao gồm Barcelona (Tây Ban Nha); Bayern München (Đức); AC MilanInter Milan (Ý); Manchester City, LiverpoolChelsea (Anh); Corinthians, São PauloInternacional (Brasil). La Liga là giải vô địch quốc gia thành công nhất với 8 chức vô địch, trong đó Barcelona có 4 lần vào chung kết và Real Madrid nắm kỉ lục nhiều nhất với 5 trận chung kết toàn thắng.

Các trận chung kết, tranh hạng ba

[sửa | sửa mã nguồn]
Ký hiệu trong bảng
dagger Trận đấu được quyết định bằng hiệp phụ double-dagger Trận đấu được quyết định bằng sút luân lưu
Năm Chủ nhà Vô địch Tỷ số Á quân Hạng ba Tỷ số Hạng tư Tham khảo
2000
Chi tiết
 Brasil Brasil Corinthians 0–0double-dagger
43
Brasil Vasco da Gama México Necaxa 1–1double-dagger
43
Tây Ban Nha Real Madrid [4]
[5]
2005
Chi tiết
 Nhật Bản Brasil São Paulo 1–0 Anh Liverpool Costa Rica Saprissa 3–2 Ả Rập Xê Út Al-Ittihad [6]
[7]
2006
Chi tiết
Brasil Internacional 1–0 Tây Ban Nha Barcelona Ai Cập Al Ahly 2–1 México Club América [8]
[9]
2007
Chi tiết
Ý AC Milan 4–2 Argentina Boca Juniors Nhật Bản Urawa Reds Diamonds 2–2double-dagger
[n 1]
Tunisia Étoile du Sahel [11]
[12]
2008
Chi tiết
Anh Manchester United 1–0 Ecuador LDU Quito Nhật Bản Gamba Osaka 1–0 México Pachuca [13]
[14]
2009
Chi tiết
 UAE Tây Ban Nha Barcelona 2–1dagger
[n 2]
Argentina Estudiantes Hàn Quốc Pohang Steelers 1–1double-dagger
[n 3]
México Atlante [17]
[18]
2010
Chi tiết
Ý Inter Milan 3–0 Cộng hòa Dân chủ Congo TP Mazembe Brasil Internacional 4–2 Hàn Quốc Seongnam Ilhwa Chunma [19]
[20]
2011
Chi tiết
 Nhật Bản Tây Ban Nha Barcelona 4–0 Brasil Santos Qatar Al Sadd 0–0double-dagger
[n 4]
Nhật Bản Kashiwa Reysol [22]
[23]
2012
Chi tiết
Brasil Corinthians 1–0 Anh Chelsea México Monterrey 2–0 Ai Cập Al Ahly [24]
[25]
2013
Chi tiết
 Maroc Đức Bayern München 2–0 Maroc Raja Casablanca Brasil Atlético Mineiro 3–2 Trung Quốc Quảng Châu Hằng Đại [26]
[27]
2014
Chi tiết
Tây Ban Nha Real Madrid 2–0 Argentina San Lorenzo New Zealand Auckland City 1–1double-dagger
[n 5]
México Cruz Azul
2015
Chi tiết
 Nhật Bản Tây Ban Nha Barcelona 3–0 Argentina River Plate Nhật Bản Sanfrecce Hiroshima 2–1 Trung Quốc Quảng Châu Hằng Đại
2016
Chi tiết
Tây Ban Nha Real Madrid 4–2dagger
[n 6]
Nhật Bản Kashima Antlers Colombia Atlético Nacional 2–2double-dagger
[n 7]
México Club América
2017
Chi tiết
 UAE Tây Ban Nha Real Madrid 1–0 Brasil Grêmio México Pachuca 4–1 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Al-Jazira
2018
Chi tiết
Tây Ban Nha Real Madrid 4–1 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Al-Ain Argentina River Plate 4–0 Nhật Bản Kashima Antlers
2019
Chi tiết
 Qatar Anh Liverpool 1–0 Brasil Flamengo México Monterrey 2–2double-dagger
[n 8]
Ả Rập Xê Út Al-Hilal
2020
Chi tiết
Đức Bayern München 1–0 México Tigres UANL Ai Cập Al-Ahly 0–0double-dagger
[n 9]
Brasil Palmeiras
2021
Chi tiết
 UAE Anh Chelsea 2–1dagger
[n 10]
Brasil Palmeiras Ai Cập Al-Ahly 4–0 Ả Rập Xê Út Al Hilal
2022
Chi tiết
 Maroc Tây Ban Nha Real Madrid 5–3 Ả Rập Xê Út Al Hilal Brasil Flamengo 4–2 Ai Cập Al Ahly
2023
Chi tiết
 Ả Rập Xê Út Anh Manchester City 4–0 Brasil Fluminense Ai Cập Al Ahly 4–2 Nhật Bản Urawa Red Diamonds
2025
Chi tiết
 Hoa Kỳ

Thành tích theo câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ Vô địch Á quân Năm vô địch Năm á quân
Tây Ban Nha Real Madrid 5 2014, 2016, 2017, 2018, 2022 &
Tây Ban Nha Barcelona 3 1 2009, 2011, 2015 2006
Brasil Corinthians 2 2000, 2012 &
Đức Bayern Munich 2 2013, 2020 &
Anh Liverpool 1 1 2019 2005
Anh Chelsea 1 1 2021 2012
Brasil São Paulo 1 2005 &
Brasil Internacional 1 2006 &
Ý AC Milan 1 2007 &
Anh Manchester United 1 2008 &
Ý Inter Milan 1 2010 &
Anh Manchester City 1 2023 &
Brasil Vasco da Gama 1 &
2000
Argentina Boca Juniors 1 &
2007
Ecuador LDU Quito 1 &
2008
Argentina Estudiantes 1 &
2009
Cộng hòa Dân chủ Congo TP Mazembe 1 &
2010
Brasil Santos 1 &
2011
Maroc Raja Casablanca 1 &
2013
Argentina San Lorenzo 1 &
2014
Argentina River Plate 1 &
2015
Nhật Bản Kashima Antlers 1 &
2016
Brasil Grêmio 1 &
2017
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Al-Ain 1 &
2018
Brasil Flamengo 1 &
2019
México Tigres UANL 1 &
2020
Brasil Palmeiras 1 &
2021
Ả Rập Xê Út Al-Hilal 1 &
2022
Brasil Fluminense 1 &
2023

Thành tích theo quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Vô địch Á quân
Tây Ban Nha 8 1
 Brasil 4 6
 Anh 4 2
 Ý 2
 Đức 2
 Argentina 4
Cộng hòa Dân chủ Congo DR Congo 1
 Ecuador 1
 Nhật Bản 1
 Maroc 1
 UAE 1
 México 1
 Ả Rập Xê Út 1

Số huy chương (20002023)

[sửa | sửa mã nguồn]
HạngĐoànVàngBạcĐồngTổng số
1 Tây Ban Nha (ESP)8109
2 Brasil (BRA)46313
3 Anh (ENG)4206
4 Đức (GER)2002
 Ý (ITA)2002
6 Argentina (ARG)0415
7 México (MEX)0145
8 Nhật Bản (JPN)0134
9 Ả Rập Xê Út (KSA)0101
 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE)0101
 Cộng hòa Dân chủ Congo (COD)0101
 Maroc (MAR)0101
 Ecuador (ECU)0101
14 Ai Cập (EGY)0044
15 Costa Rica (CRC)0011
 Colombia (COL)0011
 Hàn Quốc (KOR)0011
 Qatar (QAT)0011
 New Zealand (NZL)0011
Tổng số (19 đơn vị)20202060

Thành tích theo liên đoàn

[sửa | sửa mã nguồn]

Các đại diện châu Phi xuất sắc nhất tính tới thời điểm hiện tại là TP Mazembe của Cộng hòa Dân chủ Congo và Raja Casablanca của Maroc. Đó là 2 đội duy nhất của châu Phi từng tham dự trận chung kết giải đấu, lần lượt vào các năm 2010 và 2013.

Kashima Antlers của Nhật Bản, Al-Ain của Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất và Al-Hilal của Ả Rập Xê Út là những đội châu Á có thành tích tốt nhất, giành vị trí á quân lần lượt vào các năm 2016, 2018 và 2022.

Các câu lạc bộ của MéxicoNecaxa, MonterreyPachuca, cũng như Deportivo Saprissa của Costa Rica, từng đạt vị trí thứ 3. Đây là thành tích tốt nhất của các đại diện Bắc Mỹ.

Câu lạc bộ Auckland City của New Zealand đã một lần giành hạng 3 và là đội duy nhất của Châu Đại Dương lọt vào bán kết tính đến nay.

Đã có tổng cộng 4 câu lạc bộ ngoài châu Âu và Nam Mỹ tham dự trận chung kết.

Liên đoàn Vô địch Á quân
UEFA 16 3
CONMEBOL 4 11
AFC 0 3
CAF 0 2
CONCACAF 0 1
Tổng cộng 20 20

Các giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Quả bóng vàng Quả bóng bạc Quả bóng đồng Chiếc giày vàng Phong cách
2000 Brasil Edílson Brasil Edmundo Brasil Romário Brasil Romário (3)
Pháp Nicolas Anelka (3)
Ả Rập Xê Út Al-Nassr
2005 Brasil Rogerio Ceni Anh Steven Gerrard Costa Rica Cristian Bolaños Brasil Amoroso (2)
Anh Peter Crouch (2)
Costa Rica Alvaro Saborio (2)
Ả Rập Xê Út Mohammed Noor (2)
Anh Liverpool FC
2006 Bồ Đào Nha Deco Brasil Iarley Brasil Ronaldinho Ai Cập Mohamed Aboutrika (3) Tây Ban Nha Barcelona
2007 Brasil Kaká Hà Lan Clarence Seedorf Argentina Rodrigo Palacio Brasil Washington (3) Nhật Bản Urawa Red Diamonds
2008 Anh Wayne Rooney Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo Argentina Damián Manso Anh Wayne Rooney (3) Úc Adelaide United
2009 Argentina Lionel Messi Argentina Juan Sebastián Verón Tây Ban Nha Xavi Hernández Brasil Denilson (4) México Atlante
2010 Cameroon Samuel Eto'o Cộng hòa Dân chủ Congo Dioko Kaluyituka Argentina Andrés D'Alessandro Colombia Mauricio Molina (3) Ý Inter Milan
2011 Argentina Lionel Messi Tây Ban Nha Xavi Brasil Neymar Argentina Lionel Messi (2)
Brasil Adriano (2)
Tây Ban Nha Barcelona
2012 Brasil Cássio Brasil David Luiz Perú Paolo Guerrero Argentina César Delgado (3)

Nhật Bản Satõ Hisato (3)

México Monterrey
2013 Pháp Franck Ribéry Đức Philipp Lahm Maroc Mouhcie Iajour Brasil Ronaldinho (2)

Argentina Darío Conca (2) Argentina César Delgado (2) Maroc Mouhcie Iajour (2)

Đức Bayern Munich
2014 Tây Ban Nha Sergio Ramos Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo New Zealand Ivan Vicelich Tây Ban Nha Serigo Ramos (2)

Wales Gareth Bale (2)

México Gerardo Torrado (2)

Tây Ban Nha Real Madrid
2015 Uruguay Luis Suárez Argentina Lionel Messi Tây Ban Nha Andrés Iniesta Uruguay Luis Suárez (5) Tây Ban Nha Barcelona
2016 Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo Croatia Luka Modric Nhật Bản Gaku Shibasaki Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo (4) Nhật Bản Kashima Antlers
2017 Croatia Luka Modrić Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo Uruguay Jonathan Urretaviscaya Brasil Maurício Antônio (2)

Brasil Romarinho (2)

Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo (2)

Tây Ban Nha Real Madrid
2018 Wales Gareth Bale Brasil Caio Colombia Rafael Santos Berré Wales Gareth Bale (3)

Colombia Rafael Santos Berré (3)

Tây Ban Nha Real Madrid
2019 Ai Cập Mohamed Salah Brasil Bruno Henrique Brasil Carlos Eduardo Algérie Baghdad Bounedjah (3)

Libya Hamdou Elhhouni (3)

Tunisia Espéranncce de Tunis
2020 Ba Lan Robert Lewandowski Pháp André-Pierre Gignac Đức Joshua Kimmich Pháp André-Pierre Gignac (3) Qatar Al-Duhail
2021 Brasil Thiago Silva Brasil Dudu Brasil Danilo Bỉ Romelu Lukaku (2)
Brasil Raphael Veiga (2)
Ai Cập Yasser Ibrahim (2)
Mali Abdoulay Diaby (2)
Anh Chelsea
2022 Brasil Vinícius Júnior Uruguay Federico Valverde Argentina Luciano Vietto Brasil Pedro (4) Tây Ban Nha Real Madrid
2023 Tây Ban Nha Rodri Anh Kyle Walker Colombia Jhon Arias Argentina Julián Álvarez (2)
Pháp Karim Benzema (2)
Tunisia Ali Maâloul (2)
Ả Rập Xê Út Al-Ittihad

Tiền thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với từng đội, đội vô địch được nhận 5 triệu $, đội Á quân nhận 4 triệu $, đội hạng ba 2.5 triệu $, hạng tư 2 triệu $, hạng năm 1.5 triệu $, hạng sáu 1 triệu $ và đội hạng bảy nhận 500,000 $.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Urawa Red Diamonds thắng 4–2 trong loạt sút luân lưu.[10]
  2. ^ Hòa 1–1 sau 90 phút.[15]
  3. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Pohang Steelers thắng 4–3 trong loạt sút luân lưu.[16]
  4. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Al Sadd thắng 5–3 trong loạt sút luân lưu.[21]
  5. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Auckland City thắng 4–2 trong loạt sút luân lưu.[28]
  6. ^ Hòa 2–2 sau 90 phút.
  7. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Atlético Nacional thắng 4–3 trong loạt sút luân lưu.
  8. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba. Monterrey thắng 4–3 trong loạt sút luân lưu.
  9. ^ Không thi đấu hiệp phụ trong trận tranh hạng ba.Al-Ahly thắng 3–2 trong loạt sút luân lưu.
  10. ^ Hòa 1–1 sau 90 phút.
  1. ^ “A new FIFA Club World Cup with Real Madrid, Barcelona, Atletico and Sevilla”. 29 tháng 11 năm 2017. Truy cập 3 tháng 12 năm 2017.
  2. ^ “FIFA Are Planning A Massive 24-Team Club World Cup”. 29 tháng 11 năm 2017. Truy cập 3 tháng 12 năm 2017.
  3. ^ “FIFA plant Mega-Klub-WM” (bằng tiếng Đức). 29 tháng 11 năm 2017. Truy cập 3 tháng 12 năm 2017.
  4. ^ “FIFA Club World Championship Brazil 2000”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ Pontes, Ricardo (ngày 29 tháng 5 năm 2007). “FIFA Club World Championship 2000”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  6. ^ “FIFA Club World Championship Toyota Cup Japan 2005”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Nakanishi, Masanori "Komabano"; de Arruda, Marcelo Leme (ngày 30 tháng 4 năm 2006). “FIFA Club World Championship 2005”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  8. ^ “FIFA Club World Cup Japan 2006”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  9. ^ Nakanishi, Masanori "Komabano"; de Arruda, Marcelo Leme (ngày 10 tháng 5 năm 2007). “FIFA Club World Championship 2006”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  10. ^ “Shootout sends bronze to Urawa”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  11. ^ “FIFA Club World Cup Japan 2007”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  12. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 28 tháng 5 năm 2008). “FIFA Club World Championship 2007”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  13. ^ “FIFA Club World Cup Japan 2008”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  14. ^ Nakanishi, Masanori "Komabano"; de Arruda, Marcelo Leme (ngày 21 tháng 5 năm 2009). “FIFA Club World Championship 2008”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  15. ^ “Club Estudiantes de La Plata – FC Barcelona”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 19 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ “Pohang Steelers FC – Atlante Futbol Club”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 19 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  17. ^ “FIFA Club World Cup UAE 2009”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  18. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 14 tháng 5 năm 2010). “FIFA Club World Championship 2009”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  19. ^ “FIFA Club World Cup UAE 2010”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  20. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 17 tháng 7 năm 2012). “FIFA Club World Championship 2010”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  21. ^ “Al-Sadd take third on penalties”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 18 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  22. ^ “FIFA Club World Cup Japan 2011”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  23. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 17 tháng 7 năm 2012). “FIFA Club World Championship 2011”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  24. ^ “FIFA Club World Cup Japan 2012”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  25. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 10 tháng 1 năm 2013). “FIFA Club World Championship 2012”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  26. ^ “FIFA Club World Cup Morocco 2013”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2014.
  27. ^ de Arruda, Marcelo Leme (ngày 23 tháng 12 năm 2013). “FIFA Club World Championship 2013”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2014.
  28. ^ “Auckland City claim historic bronze”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 20 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]