An Nam chí lược
An Nam chí lược | |
---|---|
安南志略 | |
Thông tin sách | |
Quốc gia | Đại Việt |
Ngôn ngữ | Hán Văn |
Bộ sách | 20 quyển (nay chỉ còn 19) |
Chủ đề | Lịch sử Việt Nam, Văn hóa Việt Nam, Địa lý Việt Nam |
Thể loại | Sách lịch sử |
Nhà xuất bản | Nhà Nguyên |
Ngày phát hành | Ở nửa đầu thế kỷ 14 |
An Nam chí lược [1][2], là một bộ sách sử viết bằng văn xuôi chữ Hán do Lê Tắc[3] (1263 - 1342) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14. Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa của An Nam (Việt Nam ngày nay) từ ban đầu đến cuối đời Trần. Nguyên bản có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển. Có lẽ đây là một công trình khảo cứu về Việt Nam lâu đời nhất còn lại, do một người Việt viết.[4]
Mục lục và nội dung (sơ lược)
[sửa | sửa mã nguồn]Dưới đây là mục lục sách An Nam chí lược được giới thiệu trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1), kèm theo là nội dung tóm tắt (phần để trong ngoặc) của GS. Nguyễn Huệ Chi và của An Nam chí lược hiệu bản. Ở các bản khác, phần mục lục có dị biệt một vài chỗ.
Quyển | Tiêu đề | Nội dung | Ghi chú |
---|---|---|---|
01 | Tổng quát | Thông tin tổng quát về Đại Việt, Địa lý đồ [5], Tổng tự[6], Quận ấp, sơn thủy, cổ tích, Đường An Nam Đô hộ nguyên lệ châu quận[7], phong tục[8], Biên cảnh phục dịch[9], Trắc ảnh[10]. | [11] |
02 |
Đại Nguyên chiếu chế[12] Tiền triều thư mạng |
Gồm các giấy tờ triều Nguyên gửi cho triều đình Việt Nam Gồm các bức thư và sắc chỉ của các triều đại Trung Quốc trước triều Nguyên gửi các triều đại Việt Nam |
[13] |
03 |
Tiền triều phụng sứ |
Phụ chép cuộc sứ trình của Trương Lập Đạo sang Việt Nam, và bài tựa tập Sử Giao lục[16] của Tiêu Phương Nhai[17] nói về cuộc đi sứ sang Việt Nam năm 1294. Các sứ thần của các triều đại trước triều Nguyên sang Việt Nam. |
[18] |
04 |
Chính thảo vận hướng[19] Tiền triều chinh phạt |
Việc tải lương trong cuộc xâm lược Việt Nam của nhà Nguyên. Việc chuẩn bị lương thảo của các triều đại trước nhà Nguyên trong những lần hành quân xâm lược Việt Nam |
[20] |
05 |
Đại Nguyên danh thần vãng phục thơ vấn[21] Tiền triều thư sớ |
Thư từ của các quan chức triều Nguyên và các triều trước liên quan đến Đại Việt. Thư từ của các triều đại trước nhà Nguyên giao thiệp với Việt Nam. |
[22] |
06 |
Biểu chương[23] Tiền đại thư biểu |
Thư biểu của các vua Việt Nam gửi cho chính quyền Trung Quốc Thư biểu của Triệu Đà, Lê Hoàn...gửi các triều vua Trung Quốc, trước triều Nguyên |
[24] |
07 |
Hán Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam thứ sử, thái thú[25] Phụ Tam Quốc thời thứ sử |
Các quan Thứ sử, Thái thú ở quận Giao Châu, Cửu Chân, Nhật Nam Phụ chép các quan Thứ sử, Thái thú đời Tam Quốc |
[26] |
08 |
Lục Triều Giao Châu thứ sử, đô đốc; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, thái thú[27] |
Các Đô đốc, Thứ sử Giao Châu, các Thái thú ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trong thời Lục Triều trong giai đoạn Bắc thuộc lần 1. |
[28] |
09 |
Đường An Nam đô đốc, đô hộ, kinh lược sứ, Giao, Ái, Hoan tam quận thứ sử[29] Phụ Thiên Oai Kỉnh tân tạc hải phái bia |
Các quan Đô đốc, Đô hộ, Kinh lược sứ An Nam và các quan Thứ sử ba quận là Giao Chỉ, Ái Châu, Hoan Châu vào đời nhà Đường. Phụ chép bài văn bia Thiên Oai Kỉnh, đường kênh mới đào |
[30] |
10 |
Lịch triều ky thần |
Chép về những viên quan Trung Quốc bị đày hoặc bỏ trốn sang Việt Nam ký ngụ |
[31] |
11 |
Triệu thị thế gia[32] |
Gia thế, dòng dõi của nhà Triệu, họ Khúc, nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê. Phụ chép bài Nam Việt hành của quan Gián nghị nhà Tống là Chu Chi Tài. |
[33] |
12 |
Lý thị thế gia[34] |
Gia thế, dòng dõi nhà Lý. |
[35] |
13 |
Trần thị thế gia[36] Phụ chép Nội phụ hầu vương |
Gia thế, dòng dõi nhà Trần) từ Trần Thừa to Trần Minh Tông. Các Vương hầu nội phụ: Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện. |
[37] |
14 |
Thông tin các công việc của nhà nước. Học hiệu Quan chế Hình chánh Binh chế Lịch đại khiển sứ |
Tình hình giáo dục Quy chế quan lại Mũ áo phẩm phục Việc cai trị Tổ chức quân đội Sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc trong các triều đại |
[38] |
15 |
Nhân vật[39] Vật sản |
Nói về những người Việt Nam gồm 2 mục chính, 1 mục phụ, gồm nhiều tiểu mục nhỏ: Người nhận tước mệnh của các triều đại của Trung Quốc, người sang làm quan ở Trung Quốc, người có tên tuổi, phụ nữ tiết nghĩa, nhà sư có tiếng, người chống lại chính quyền đô hộ: Trưng Trắc, Bà Triệu, Lý Bí, Dương Thanh, Nùng Trí Cao). Các loại sản vật quý của Việt Nam. Phần này đã mất |
[40] |
16 |
Tạp ký[41] |
Chuyện vặt vãnh. Phụ chép bài Liễu Tử Hậu vị An Nam Dương thị ngự tế Trương Đô hộ văn[42]. |
[43] |
17 |
Chí Nguyên dĩ lai danh hiền phụng sứ An Nam thi[44] Ngọc Đường chư công tặng Thiên sứ thi tự |
Thơ văn của các sứ thần triều Nguyên sang Việt Nam từ niên hiệu Chí Nguyên [đời Nguyên Huệ Tông] trở về sau. Những bài tựa và thơ của các quan Hàn lâm viện đưa tặng các sứ giả triều Nguyên sang Việt Nam. |
[45] |
18 |
An Nam danh nhân thi[46] |
Thơ của các vua quan triều Trần, trong đó có tác giả. |
[47] |
19 |
Đồ chí ca[48] Tự sự |
Bài thơ trường thiên của tác giả viết về mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc. tự kể chuyện về thân thế của tác giả |
[49] |
20 |
Danh công đề vịnh An Nam chí |
Nay đã mất |
Năm biên soạn[sửa | sửa mã nguồn]Không biết chính xác năm khởi soạn. Tuy nhiên, căn cứ vào ba bài Tựa viết cho An Nam chí lược vào năm Đinh Mùi (1307), có lẽ bộ sách được biên soạn trước đó, đến năm ấy, thì tác phẩm đã cơ bản hoàn thành, và còn được tiếp tục bổ sung thêm trong nhiều năm sau.
Không rõ sau đó, Lê Tắc đã soạn thêm những phần nào, chỉ biết mãi đến hơn 25 năm sau (1333 hoặc 1335), mới có bài Tự tựa của chính tác giả. (xem bên dưới). Và căn cứ vào câu "Nguyên Thống sơ nguyên..." ở cuối bài, mà một số nhà nghiên cứu, trong đó có H. Maspéro đã cho rằng bộ sách đã làm xong vào năm 1333 (năm này, Hoàng đế Nguyên Huệ Tông cho đổi niên hiệu là Nguyên Thống)[51]. Không đồng ý với ý kiến trên, sau khi khảo chứng, GS. Trần Kính Hòa (Chen Ching Ho, nhà nghiên cứu người Hồng Kông) đã cho rằng chữ "nguyên" trong "sơ nguyên" là chép hay khắc nhầm (vì kiểu chữ hơi giống nhau), lẽ ra phải là chữ "tam", tức năm 1335. Ngoài ra, căn cứ vào một vài sự kiện xảy ra sau đó được ghi trong bộ sách, GS. Hòa còn kết luận rằng "An Nam chí lược không phải đã soạn xong vào dịp Lê Tắc viết bài Tự tựa, kỳ thực Lê Tắc vẫn tiếp tục gia bút cho đến năm Chí Nguyên Kỷ Mão (1339)". Nhưng vì sao có bài Tự tựa đề năm 1335, GS. Hòa giải thích: "Hình như lúc ấy bộ này đã có cơ hội được đem ra ấn hành, song việc đó đến năm Chí Nguyên thứ 5 (1339) vẫn chưa được thực hiện"...[52]. Vì tác giả không đề năm khởi soạn, và vì năm hoàn thành bộ sách cũng chưa thật rõ ràng, nên có một số tác giả đã ghi là "An Nam chí lược được biên soạn vào đời Nguyên" (như trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu [quyển 14] biên soạn vào đời Càn Long, nhà Thanh, Trung Quốc), hoặc là "vào thế kỷ 14" (như H. Cordier trong cuốn Theo book of Ser Marco Polo xuất bản ở Luân Đôn năm 1924). Các truyền bản[sửa | sửa mã nguồn]Theo bài "Tựa" (giới thiệu ở bên dưới) của Học sĩ Âu Dương Huyền, thì trong năm Thiên Lịch (1328-1329) đời Nguyên Văn Tông, ông cùng với một số văn nhân khác được nhà vua cho làm chức Toản tu để soạn bộ Kinh Thế đại điển. Đến khi làm xong định dâng lên vua, thì có Đại học sĩ Hà Vinh dâng cuốn An Nam chí lược (gồm 20 quyển) của Lê Tắc, khiến vua ban chiếu giao cho thư cuộc, làm thành một quyển An Nam phụ lục để thêm vào bộ Kinh Thế đại điển, xếp ở mục "địa quan" (tức sử địa)...Tiếc rằng bộ sách này sau đó đã thất truyền. Qua đầu đời nhà Minh, An Nam chí lược lại được chép trong bộ Vĩnh Lạc đại điển (soạn 1403, xong 1408), nhưng phần chép ấy sau đó lại bị thất truyền, nên không rõ A Nam chí lược trong Vĩnh Lạc đại điển (và cả trong Kinh Thế đại điển) chép ra sao. Chỉ biết đến khi Thanh Cao Tông (Càn Long) giáng chỉ soạn bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, và An Nam chí lược được đưa vào, thì nó chỉ còn 19 quyển[52]. Tóm lại, An Nam chí lược từng có mặt trong cả ba bộ sách lớn (được coi là "bách khoa toàn thư Trung Quốc"), và đã được nhiều danh sĩ khen ngợi trong các bài Tựa. Tiếc rằng Bản nguyên gồm 20 quyển đã thất truyền từ lâu, hiện giờ chỉ còn bản 19 quyển đang được lưu hành. Tuy vẫn có bản 20 quyển như: bản Văn lan các ở Tokyo (Nhật Bản), Bản sao của British Museum (Luân Đôn, Anh),...nhưng kỳ thực các bản ấy chỉ lấy bản 19 quyển phân chia thành 20 quyển mà thôi...[52] Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì sau năm 1339, An Nam chí lược (20 quyển) mới được san khắc lần đầu, nhưng bản ấy về sau đã thất lạc[4]. Tuy nhiên, căn cứ nội dung bài Tựa (không đề năm) của Âu Dương Huyền (xem bên dưới), thì rất có thể sách được san khắc lần đầu trong khoảng niên hiệu Chí Nguyên (1335-1340, đời Nguyên Huệ Tông). Bản An Nam chí lược thông dụng bấy lâu nay là san bản của nhà Lạc Thiện đường do Kishida Ginko (phiên âm tiếng Việt là Ngạn Ngâm Hương, người Nhật Bản) ấn hành năm Minh Trị thứ 17 (tức năm Quang Tự thứ 10 của triều Thanh, 1884) tại Thượng Hải (Trung Quốc). Trong bài Tựa, ông cho biết đây bản của Thiếu Thiềm Tiền Trúc Đinh tự tay hiệu chính, và trước kia nó thuộc tàng thư cũ của Ngũ Nghiện lầu[53]. Bộ sách này chỉ có 19 quyển, và đã được Phan Duy Tiếp dịch rồi in rônêô tại miền Bắc Việt Nam vào năm 1959[4]. Ngày 31 tháng 3 năm 1960, sau khi đã tổ chức phiên dịch, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam trực thuộc Viện Đại học Huế đã giới thiệu một bộ An Nam chí lược mới. Theo "Phàm lệ", thì Ủy ban đã lấy bản của Lạc Thiện đường, bản sao của Tiền Đại Hân tự tay hiệu đính (hiện tàng trữ tại Nội các Văn khố Nhật Bản), bản sao của Văn lan các (hiện tàng trữ tại Đông Kinh Tỉnh Gia đường văn khố) và bản sao ở Bảo tàng Anh (London) để làm ra, và đặt tên là An Nam chí lược hiệu bản. Năm 2012, An Nam chí lược hiệu bản lại được giới thiệu đầy đủ trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1) do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành. Tự tựa và Tựa của Âu Dương Huyền[sửa | sửa mã nguồn]Dưới đây là "Tự tựa" của Lê Tắc (dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt) cho biết lý do làm ra An Nam chí lược, và các sách mà ông đã dùng để tham khảo trong quá trình biên soạn.
Ngoài bài "Tự tựa" của tác giả, trong các bản lưu truyền, còn có các bài Tựa của các danh sĩ Trung Quốc (phần lớn là của các danh sĩ đời Nguyên), Kishida Ginko (người Nhật Bản, đề Tựa năm 1884),... Bên dưới đây, chỉ giới thiệu bài "Tựa" của Học sĩ Âu Dương Huyền, vì nó có liên quan đến khoảng thời gian ra đời của An Nam chí lược.
Nhận xét[sửa | sửa mã nguồn]Trong các bài Tựa của các danh dĩ triều Nguyên viết cho bộ An Nam chí lược, đều có lời khen ngợi tác giả và tác phẩm, mà bài Tựa của Âu Dương Huyền vừa giới thiệu bên trên chỉ là một trong số đó... Đến đời Thanh, trong bộ Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu (soạn đời Càn Long) cũng đã có lời khen ngợi như sau:
Đối với các nhà nghiên cứu người Việt, có ý kiến cho rằng, tác giả đã đứng trên quan điểm của người Nguyên để soạn An Nam chí lược, bằng lời lẽ xu phụ, nên đã bị một số sĩ phu khinh miệt cho tác giả là "tiểu nhân nho", là "phản bội tổ quốc" [61]. Song, cũng có ý kiến khác cho rằng, tuy làm quan cho nhà Nguyên, nhưng tác giả vẫn có lòng tưởng nhớ cố hương, và cách soạn sách theo quan điểm nhà Nguyên là việc bắt buộc phải uốn theo triều đại mà ông phục vụ [62]. Mặc dù có những hạn chế về mặt quan điểm, nhưng An Nam chí lược vẫn được coi là một bộ sách lớn, xuất hiện sớm, có giá trị nhiều mặt, do một người có trình độ học vấn cao viết về thời đại mình đang sống (thời nhà Trần) trở về trước [63]. Khái quát về mặt ưu và khuyết của tác phẩm, GS. Nguyễn Huệ Chi, viết:
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
|