Bước tới nội dung

Amphiprion ephippium

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Amphiprion ephippium
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Phân họ (subfamilia)Amphiprioninae
Chi (genus)Amphiprion
Loài (species)A. ephippium
Danh pháp hai phần
Amphiprion ephippium
(Bloch, 1790)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Lutjanus ephippium Bloch, 1790
  • Amphiprion calliops Schultz, 1966

Amphiprion ephippium là một loài cá hề thuộc chi Amphiprion trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1790.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "yên ngựa", hàm ý đề cập đến một vùng màu đen ở nửa sau thân trên của cá con (thu hẹp thành một vệt đốm lớn ở cá trưởng thành)[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. ephippium được ghi nhận từ quần đảo Andaman và Nicobarbiển Andaman trải dài đến bán đảo Mã Lai cùng hai đảo SumatraJava (Indonesia)[1].

A. ephippium sinh sống gần các rạn san hô trên nền đáy cát ở độ sâu đến ít nhất là 15 m. Chúng sống cộng sinh với hai loài hải quỳ, là Entacmaea quadricolorHeteractis crispa[3].

A. ephippium có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 14 cm[3]. Loài cá hề này có màu cam ửng đỏ với một vệt đen lớn ở hai bên thân (vệt đen này rất lớn ở cá con và thu hẹp dần khi chúng trưởng thành). Cá con có 2-3 sọc trắng trên cơ thể, trong khi cá trưởng thành lại không có bất kỳ sọc trắng nào, điều này giúp phân biệt A. ephippium với các loài cá hề trưởng thành có màu đỏ cam khác là Amphiprion frenatus, Amphiprion melanopusAmphiprion rubrocinctus[4].

Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–14[3].

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của A. ephippiumđộng vật phù du, một số loài thủy sinh không xương sốngtảo[5].

A. ephippium là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực thường có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con non nhỏ hơn. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc đến khi chúng nở[3].

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

A. ephippium được đánh bắt bởi những người thu mua cá cảnh và cũng đã được nhân giống nuôi nhốt[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Jenkins, A.; Carpenter, K.E.; Allen, G.; Yeeting, B.; Myers, R. (2017). Amphiprion ephippium. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188463A1878690. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188463A1878690.en. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series OVALENTARIA (Incertae sedis): Family POMACENTRIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Amphiprion ephippium trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2021.
  4. ^ Daphne Gail Fautin, Gerald R. Allen (1997). Anemone fishes and their host sea anemones: a guide for aquarists and divers. Perth, Tây Úc: Western Australian Museum. ISBN 978-0730983651. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ G. R. Allen (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3347. ISBN 978-9251045879.