Bước tới nội dung

Tàu sân bay hộ tống

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Kieprongbuon812 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 12:09, ngày 26 tháng 7 năm 2016 (top: clean up using AWB). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Tàu sân bay hộ tống HMS Audacity (D10) của Hải quân Hoàng gia Anh

Tàu sân bay hộ tống (ký hiệu lườn CVE, tên tiếng Anh: escort carrier hoặc escort aircraft carrier) là một kiểu tàu sân bay nhỏ và chậm được Hải quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoàng gia Anh, Hải quânLục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Một tàu sân bay hộ tống tiêu biểu chỉ dài khoảng một nữa, và trọng lượng choán nước chỉ khoảng một phần ba so với tàu sân bay hạm đội. Trong khi chậm hơn, mang theo ít máy bay hơn, được vũ trang và bảo vệ kém, tàu sân bay hộ tống có chi phí thấp và chế tạo nhanh là ưu thế chủ yếu của chúng. Tàu sân bay hộ tống có thể hoàn tất với số lượng lớn là một giải pháp tạm thời khi thiếu hụt tàu sân bay lớn. Tuy nhiên, việc được bảo vệ kém khiến chúng trở nên mong manh, và nhiều chiếc đã bị đánh chìm với tổn thất nhân mạng lớn. Tàu sân bay hạng nhẹ (ký hiệu lườn CVL) có cùng khái niệm như tàu sân bay hộ tống ở nhiều mặt, nhưng có tốc độ nhanh hơn cho phép hoạt động song song cùng các tàu sân bay hạm đội.

Hầu hết tàu sân bay hộ tống được đóng ở các xưởng đóng tàu thương mại. Chúng quá chậm để có thể theo kịp lực lượng hải quân chủ lực, bao gồm tàu sân bay, thiết giáp hạmtàu tuần dương. Thay vào đó, chúng được sử dụng để hộ tống các đoàn tàu vận tải, bảo vệ họ khỏi các mối đe dọa của đối phương như tàu ngầmkhông quân. Trong các chiến dịch đổ bộ chiếm đóng tại châu ÂuThái Bình Dương, tàu sân bay hộ tống cung cấp hỗ trợ trên không cho lực lượng trên bộ trong quá trình đổ bộ, cũng như phục vụ vận chuyển máy bay dự phòng cho các tàu sân bay hạm đội, vận chuyển máy bay các loại cho mọi binh chủng ra tiền phương.

Trong Trận Đại Tây Dương, tàu sân bay hộ tống được sử dụng để bảo vệ các đoàn tàu vận tải chống lại tàu ngầm U-boat của Đức Quốc xã. Thoạt tiên, tàu sân bay hộ tống tháp tùng các đoàn tàu buôn và giúp đỡ kháng cự các cuộc tấn công của máy bay và tàu ngầm đối phương. Khi số lượng được tăng lên, tàu sân bay hộ tống hình thành nên những đội tìm-diệt chống tàu ngầm thay vì được phối thuộc cho một đoàn tàu cụ thể.

Tại Mặt trận Thái Bình Dương, tàu sân bay hộ tống hỗ trợ trên không cho lực lượng trên bộ trong Trận chiến vịnh Leyte; chúng không có tốc độ và vũ khí để đối phó hạm đội đối phương, phải dựa trên sự bảo vệ của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Tuy nhiên, trong Trận chiến ngoài khơi Samar, một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống đã tự bảo vệ mình thành công trước một lực lượng thiết giáp hạm và tàu tuần dương Nhật Bản mạnh hơn nhiều. Phía Nhật Bản gặp phải một sự kháng cự kịch liệt của các tàu sân bay hộ tống, tàu khu trụctàu khu trục hộ tống, chứng tỏ những chiếc CVE cũng có sức mạnh tác chiến như những tàu sân bay hạm đội.

Trong số 151 tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo trong Thế Chiến II, 122 chiếc là tàu sân bay hộ tống. Cho dù không còn nguyên mẫu nào được giữ lại cho đến hôm nay, lớp Casablanca nổi bật vì là lớp tàu sân bay có số lượng chế tạo nhiều nhất với 50 chiếc được đóng; tiếp theo là lớp Bogue với 32 chiếc đã được hạ thủy.

Phát triển

Đầu những năm 1920, Hiệp ước Hải quân Washington áp đặt những giới hạn về kích cỡ và tải trọng tối đa của tàu sân bay trên năm cường quốc hải quân hàng đầu thế giới; các hiệp ước hải quân tiếp theo hầu như giữ nguyên các điều khoản này. Kết quả là, việc chế tạo giữa hai cuộc thế chiến không đáp ứng được nhu cầu hoạt động của tàu sân bay khi Thế Chiến II lan rộng từ châu Âu. Có quá ít tàu sân bay hạm đội sẵn có để có thể đồng thời vận chuyển máy bay đến các căn cứ tiền phương, hỗ trợ các chiến dịch đổ bộ, huấn luyện kỹ thuật cất hạ cánh trên tàu sân bay cho phi công mới, tuần tra chống tàu ngầm, hay bảo vệ trên không cho các thiết giáp hạm và tàu sân bay được bố trí. Những nhiệm vụ này làm giới hạn khả năng tấn công không quân độc đáo của chúng, thể hiện qua trận Taranto và cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Việc cải biến những con tàu sẵn có (và những lườn tàu đang chế tạo cho những mục đích khác) cung cấp thêm tàu sân bay cho đến khi những chiếc đóng mới hoàn toàn sẵn có.

Việc cải biến tàu tuần dương và tàu biển chở hành khách với tốc độ tương đương tàu sân bay hạm đội được biết đến tại Hoa Kỳ như là tàu sân bay hạng nhẹ (ký hiệu lườn CVL) có khả năng hoạt động ở tốc độ của hạm đội chiến trận. Những chiếc cải biến chậm hơn được xếp loại như là “tàu sân bay hộ tống” (escort carrier), được xem như tàu phụ trợ phù hợp cho việc huấn luyện phi công và vận chuyển máy bay đến các căn cứ xa xôi.

Hải quân Hoàng gia Anh nhận ra nhu cầu tàu sân bay để bảo vệ các tuyến đường hàng hải của họ trong những năm 1930.[1] Trong khi thiết kế được chuẩn bị cho “tàu sân bay bảo vệ thương mại” và năm tàu biển chở hành khách phù hợp được đề xuất, không có tiến triển nào khác chủ yếu do tình trạng thiếu máy bay ngay cả cho những tàu sân bay hạm đội đang được chế tạo. Tuy nhiên, đến năm 1940, nhu cầu trở nên cấp bách và HMS Audacity được cải biến từ chiếc tàu buôn Đức chiếm được, và được cho nhập biên chế vào tháng 7, 1941.[2] Để bảo vệ chống lại máy bay Đức, các đoàn tàu vận tải thoạt tiên được cung cấp tàu phóng máy bay chiến đấu (Fighter catapult ship) và tàu CAM (catapult aircraft merchant ship) có thể mang theo một máy bay tiêm kích. Các tàu sân bay tàu buôn còn được huy động như một giải pháp tạm thời trước khi có thể cung cấp các tàu sân bay hộ tống, có thể mang theo bốn máy bay.

Vào năm 1940, Đô đốc William F. Halsey, Jr. đề xuất chế tạo tàu hải quân phụ trợ dành cho viếc huấn luyện phi công.[3] Đến đầu năm 1941, Anh Quốc đề nghị Hoa Kỳ thay mặt họ chế tạo sáu tàu sân bay trên một thiết kế của chiếc Audacity được sửa đổi; tuy nhiên Hoa Kỳ đã bắt đầu đóng tàu sân bay hộ tống của riêng họ.[4] Vào ngày 1 tháng 2, 1941, Trưởng ban Tác chiến Hải quân Hoa Kỳ ra lệnh ưu tiên cho việc chế tạo các tàu phụ trợ để vận chuyển máy bay.[5] Các tàu Hoa Kỳ chế tạo đáp ứng được yêu cầu này thoạt tiên được gọi là “tàu máy bay hộ tống phụ trợ” (AVG: auxiliary aircraft escort vessels) vào tháng 2, 1942, rồi thành “tàu sân bay phụ trợ” (ACV: auxiliary aircraft carrier) từ ngày 5 tháng 8, 1942.[6] Mẫu đầu tiên của loại này là chiếc USS Long Island. Các hoạt động trong Chiến dịch Torch và chiến tranh chống tàu ngầm tại Bắc Đại Tây Dương chứng tỏ khả năng của nó trong đội hình di chuyển chậm của các tàu buôn hay đoàn tàu vận tải đổ bộ. Xếp lớp chúng trong Hải quân Mỹ được đổi thành “tàu sân bay hộ tống” (CVE: escort aircraft carrier) vào ngày 5 tháng 7, 1943 phản ảnh trạng thái được nâng cấp từ phụ trợ thành tàu tác chiến.[7] Chúng được gọi không chính thức là "Jeep carrier" hay "baby flattop"; và người ta nhanh chóng nhận ra đặc tính hoạt động tốt hơn những tàu sân bay hạng nhẹ, vốn bị chòng chành đáng kể khi biển động từ trung bình đến mạnh. Lớp Commencement Bay được thiết kế để kết hợp những đặc tính tốt nhất của tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ trên một lườn tàu ổn định hơn và một hệ thống động lực ít tốn kém.[8]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Hague 1998, tr. 83
  2. ^ Brown 2000, tr. 62-63
  3. ^ Friedman 1983, tr. 162
  4. ^ Brown 2000, tr. 63
  5. ^ Friedman 1983, tr. 165
  6. ^ Evans, Robert L. "Cinderella Carriers" United States Naval Institute Proceedings August 1976 pp.53-60
  7. ^ Friedman 1983, tr. 159-160
  8. ^ Friedman 1983, tr. 159

Tham khảo

  • Adcock, Al (1996). Escort Carriers in Action. Carrollton, TX: Squadron/Signal Publications. ISBN 978-0-89747-356-9.
  • Brown, David (1977). Aircraft Carriers. Arco Publishing Company. ISBN 0-668-04164-1.
  • Brown, David (1995). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
  • Brown, D.K. (2000). Nelson to Vanguard: Warship Design and Development 1923–1945. London: Chatham Publishing. ISBN 1 86176 136 8.
  • Cox, Robert Jon (2010). The Battle Off Samar: Taffy III at Leyte Gulf (5th Edition). Agogeebic Press, LLC. ISBN 0-9822390-4-1.
  • Friedman, Norman (1983). U.S. Aircraft Carriers. Naval Institute Press. ISBN 0-87021-739-9.
  • Gallery, Daniel V. (1965). 20 Million Tons Under The Sea. New York: Ballantine.
  • Galuppini, Gino (1981). Le guide des porte-avions. Paris: Fernand Nathan.
  • Goldberg, Mark H (1992). 'Caviar & Cargo' The C3 Passenger Ships. North American Maritime Books.
  • Hague, Arnold (1998). Convoy Rescue Ships 1940–45. World Ship Society. ISBN 0-905617-88-6.
  • Morison, Samuel E. (1958). History of United States Naval Operations in World War II, Leyte, June 1944–January 1945, Volume XII. Edison, New Jersey: Castle Books. ISBN 0-7858-1313-6.
  • Poolman, Kenneth (1972). Escort Carrier 1941–1945: An Account of British Escort Carriers in Trade Protection. London: Ian Allan.
  • Warrilow, Betty (1989). Nabob, the First Canadian-manned Aircraft Carrier. Owen Sound, Ont.: Escort Carriers Association.
  • Y'Blood, William T. (1987). The Little Giants: U.S. Escort Carriers Against Japan. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-275-3.

Liên kết ngoài