Shōgun
Tướng quân (
Các Shōgun có một bộ máy điều hành riêng được gọi là Mạc phủ (幕府 bakufu), thực hiện việc cai trị Nhật Bản trên thực tế, trong khi triều đình của Thiên hoàng chỉ giữ quyền trên danh nghĩa.[2] Mạc phủ tượng trưng cho vai trò của Shōgun thống lĩnh chiến trường, chỉ mang tính chất tạm thời trong thời chiến. Tuy nhiên, trên thực tế, thể chế này tồn tại trong gần 700 năm, và chỉ kết thúc khi Shōgun Tokugawa Yoshinobu giao trả chức vụ lại cho Thiên hoàng Minh Trị vào năm 1867 như một phần của cuộc Minh Trị Duy tân.[3]
Dù khởi đầu là một chức vụ võ quan do Thiên hoàng bổ nhiệm, nhưng từ cuối thế kỷ XII, các Shōgun đã giữ riêng chức vụ này với quyền kế vị cha truyền con nối. Trong lịch sử Nhật Bản, một số gia tộc khác nhau đã nắm giữ chức vụ này, trong đó, nổi lên 3 gia tộc, Kamakura, Ashikaga và Tokugawa, trên thực tế đã nắm giữ quyền cai trị tối cao trên thực tế trên toàn cõi Nhật Bản trong suốt gần 700 năm. .
Từ nguyên
sửaChức vụ Chinh di Đại tướng quân (
- Seitō Taishōgun (征東大将軍 lit. "Chinh Đông Đại tướng quân")[6]
- Seisei Taishōgun (征西大将軍 lit. "Chinh Tây Đại tướng quân")[7]
- Chinjufu Shōgun (鎮守府将軍 lit. "Trấn thủ phủ Tướng quân")[8]
- Seiteki Taishōgun (征狄大将軍 lit. "Chinh địch Đại tướng quân")[cần dẫn nguồn]
- Mochisetsu Taishōgun (持節大将軍 lit. "Trì tiết Đại tướng quân")[cần dẫn nguồn]
- Sekke shōgun (摂家将軍 lit. "Nhiếp gia Tướng quân")[9]
- Miya shōgun (宮将軍 lit. "Cung tướng quân")[10]
- Mutsu Chintō Tykat (陸奥鎮東将軍 lit. "Lục Áo Trấn Đông Tướng quân")[cần dẫn nguồn]
Tuy nhiên, không có chức vụ nào phát triển lên tầm quan trọng như Seii Taishōgun. Khởi đầu chỉ là một chức vụ thống lĩnh như các chức vụ trên, từ sau thế kỷ 12, các Seii Taishōgun đã trở thành lãnh đạo của các samurai, nắm giữ binh quyền và quyền cai trị trên thực tế của Nhật Bản.[11]
Lịch sử
sửaDanh sách các Tướng Quân qua từng thời kỳ
sửaShogun trong lịch sử của Nhật Bản | ||||
---|---|---|---|---|
S# | Tên | Năm sinh/
Năm mất |
Tại nhiệm và Cai trị (thời kì Mạc phủ) | Thiên hoàng |
Những shogun đầu tiên[12] | ||||
Kose no Maro[13] | ? – 7 tháng 2 năm 717 | Từ ngày 19 tháng 4 năm 709 đến chưa có thông tin xác thực | Thiên hoàng Gemmei | |
Tajihi no Agatamori | 668 – 25 tháng 7 năm 737[14] | Từ ngày 3 tháng 11 năm 720 đến tháng 5 năm 721[15] | Thiên hoàng Genshō | |
Fujiwara no Umakai[16] | 694 – 3 tháng 9 năm 737 | Từ ngày 4 tháng 5 năm 724 đến tháng 3 năm 725 | Thiên hoàng Shōmu | |
Fujiwara no Maro[17] | 695 – 17 tháng 8 năm 737 | Từ tháng 2 năm 737 đến chưa xác định | Thiên hoàng Shōmu | |
Fujiwara no Tsugina[18] | 723 – 23 tháng 8 năm 796 | Từ 7 tháng 5 năm 780 đến chưa xác định | Thiên hoàng Kōnin | |
Fujiwara Oguro Maro[19] | 733 – 31 tháng 7 năm 794 | Từ ngày 25 tháng 10 năm 780 đến tháng 9 năm 781 | Thiên hoàng Kanmu | |
Ōtomo no Yakamochi | 718 – 5 tháng 10 năm 785[20] | Từ ngày 19 tháng 3 năm 784 đến ngày 5 tháng 10 năm 785[21] | Thiên hoàng Kanmu | |
Ki no Kosami | 733 – 4 tháng 5 năm 797[22] | Từ ngày 11 tháng 8 năm 788 đến ngày 1 tháng 10 năm 789 [23] | Thiên hoàng Kanmu | |
Ōtomo no Otomaro | 731– 14 tháng 7 năm 809[24] | Từ ngày 17 tháng 8 năm 791 đến ngày 23 tháng 2 năm 795[25] | Thiên hoàng Kanmu | |
Sakanoue no Tamuramaro | 758 – 21 tháng 6 năm 811[26] | Tại nhiệm lần 1: từ ngày 27 tháng 11 năm 797 đến ngày 7 tháng 2 năm 801
Tại nhiệm lần hai: từ ngày 13 tháng 3 năm 804 đến ngày 11 tháng 10 năm 810? (chưa xác định chính xác được thông tin)[27] |
Thiên hoàng Kanmu, Thiên hoàng Heizei, Thiên hoàng Saga | |
Fun'ya no Watamaro | 765 –8 tháng 6 năm 823[28] | Tại nhiệm lần 1: 12 tháng 5 năm 811 đến chưa xác định được | Thiên hoàng Saga | |
Fujiwara no Tadabumi | 873 – 16 tháng 7 năm 947[29] | Từ ngày 29 tháng 2 năm 940 đến ngày 23 tháng 6 năm 940[27] | Thiên hoàng Suzaku | |
Minamoto no Yoshinaka | 1154 – 4 tháng 3 năm 1184[30] | Từ ngày 23 tháng 2 năm 1184 đến ngày 4 tháng 3 năm 1184[27] | Thiên hoàng Antoku | |
Mạc phủ Kamakura[31] | ||||
1 | Minamoto no Yoritomo | 9 tháng 5 năm 1147 – 9 tháng 2 năm 1199 | Từ ngày 21 tháng 8 năm 1192 đến ngày 9 tháng 2 năm 1199 | Thiên hoàng Go-Toba |
2 | Minamoto no Yoriie | 11 tháng 9 năm 1182 – 14 tháng 8 năm 1204 | Từ ngày 12 tháng 8 năm 1202 đến ngày 13 tháng 10 năm 1203 | Thiên hoàng Tsuchimikado |
3 | Minamoto no Sanetomo | 17 tháng 9 năm 1192 –13 tháng 2 năm 1219 | Từ ngày 13 tháng 10 năm 1203 đến ngày 13 tháng 2 năm 1219 | Thiên hoàng Tsuchimikado |
4 | Kujō Yoritsune | 12 tháng 2 năm 1218 – 1 tháng 9 năm 1256 | Từ ngày 25 tháng 2 năm 1226 đến ngày 5 tháng 6 năm 1244 | Thiên hoàng Go-Horikawa, Thiên hoàng Shijō, Thiên hoàng Go-Saga |
5 | Kujō Yoritsugu | 17 tháng 12 năm 1239 – 14 tháng 10 năm 1256 | Từ ngày 5 tháng 6 năm 1244 đến ngày 31 tháng 3 năm 1252 | Thiên hoàng Go-Saga, Thiên hoàng Go-Fukakusa |
6 | Hoàng tử Munetaka | 12 tháng 5 năm 1242 – 2 tháng 9 năm 1274 | Từ ngày 10 tháng 5 năm 1252 đến ngày 21 tháng 8 năm 1266 | Thiên hoàng Go-Fukakusa, Thiên hoàng Kameyama |
7 | Thân vương Koreyasu | 26 tháng 5 năm 1264 – 25 tháng 11 năm 1326 | Từ ngày 25 tháng 8 năm 1266 đến ngày 29 tháng 9 năm 1289 | Thiên hoàng Kameyama, Thiên hoàng Go-Uda, Thiên hoàng Fushimi |
8 | Thân vương Hisaaki | 19 tháng 10 năm 1276 – 16 tháng 11 năm 1328 | Từ ngày 24 tháng 10 năm 1289 đến ngày 20 tháng 8 năm 1308 | Thiên hoàng Fushimi, Thiên hoàng Go-Fushimi, Thiên hoàng Go-Nijō |
9 | Thân vương Morikuni | 19 tháng 6 năm 1301 –25 tháng 9 năm 1333 | Từ ngày 26 tháng 8 năm 1308 đến ngày 4 tháng 7 năm 1333 | Thiên hoàng Go-Nijō, Thiên hoàng Hanazono, Thiên hoàng Go-Daigo |
Tân chính Kenmu | ||||
Hoàng tử Moriyoshi | 1308 –12 tháng 8 năm 1335[32] Ông được cha mình là Thiên hoàng Go-Daigo phong là shogun năm 1333[33] | Từ ngày 25 tháng 7 năm 1333 đến tháng 10 năm 1333[33] | Thiên hoàng Go-Daigo | |
Hoàng tử Nariyoshi | 1326 –21 tháng 1 năm 1344?[34] | Từ ngày 19 tháng 8 năm 1335 đến tháng 3 nằm 1336[34] | Thiên hoàng Go-Daigo | |
Mạc phủ Ashikaga[31] | ||||
1 | Ashikaga Takauji | 1305–1358 | Từ 24 tháng 9 năm 1338 đến ngày 7 tháng 6 năm 1358 | Bắc Triều: Thiên hoàng Sukō, Thiên hoàng Go-Kōgon |
2 | Ashikaga Yoshiakira | 1330–1367 | Từ ngày 7 tháng 1 năm 1359 đến ngày 28 tháng 12 năm 1367 | Thiên hoàng Go-Kōgon (Bắc Triều) |
3 | Ashikaga Yoshimitsu | 1358–1408 | Từ ngày 7 tháng 2 năm 1369 đến ngày 8 tháng 1 năm 1395 | Bắc Triều: Thiên hoàng Go Kōgon, Thiên hoàng Go-En'yū, Thiên hoàng Go-Komatsu (Nam Bắc Triều kết thúc năm 1392) |
4 | Ashikaga Yoshimochi | 1386–1428 | Từ ngày 8 tháng 1 năm 1395 đến ngày 28 tháng 4 năm 1423 | Thiên hoàng Go-Komatsu, Thiên hoàng Shōkō |
5 | Ashikaga Yoshikazu | 1407–1425 | Từ ngày 28 tháng 4 năm 1423 đến ngày 17 tháng 3 năm 1425 | Thiên hoàng Shōkō |
6 | Ashikaga Yoshinori | 1394–1441 | Từ ngày 18 tháng 4 năm 1429 đến ngày 12 tháng 7 năm 1441 | Thiên hoàng Go-Hanazono |
7 | Ashikaga Yoshikatsu | 1434–1443 | Từ ngày 19 tháng 12 năm 1442 đến ngày 16 tháng 8 năm 1443 | Thiên hoàng Go-Hanazono |
8 | Ashikaga Yoshimasa | 1436–1490 | Từ ngày 29 tháng 4 năm 1449 đến ngày 7 tháng 1 năm 1474 | Thiên hoàng Go-Hanazono, Thiên hoàng Go-Tsuchimikado |
9 | Ashikaga Yoshihisa | 1465–1489 | Từ ngày 7 tháng 1 năm 1474 đến ngày 26 tháng 4 năm 1489 | Thiên hoàng Go-Tsuchimikado |
10 | Ashikaga Yoshitane | 1466–1523 | Từ ngày 20 tháng 7 năm 1490 đến ngày 11 tháng 8 năm 1493 | Thiên hoàng Go-Tsuchimikado |
11 | Ashikaga Yoshizumi | 1480–1511 | Từ ngày 23 tháng 1 năm 1495 đến ngày 15 tháng 5 năm 1508 | Thiên hoàng Go-Tsuchimikado, Thiên hoàng Go-Kashiwabara |
10 | Ashikaga Yoshitane (lần 2) | Từ ngày 28 tháng 7 năm 1508 đến ngày 22 tháng 1 năm 1522 | Thiên hoàng Go-Kashiwabara | |
12 | Ashikaga Yoshiharu | 1511–1550 | Từ ngày 22 tháng 1 năm 1522 đến ngày 11 tháng 1 năm 1547 | Thiên hoàng Go-Kashiwabara, Thiên hoàng Go-Nara |
13 | Ashikaga Yoshiteru | 1536–1565 | Từ ngày 11 tháng 1 năm 1547 đến ngày 17 tháng 6 năm 1565 | Thiên hoàng Go-Nara, Thiên hoàng Ōgimachi |
14 | Ashikaga Yoshihide | 1538–1568 | Từ ngày 6 tháng 3 năm 1568 đến tháng 10 năm 1568 | Thiên hoàng Ōgimachi |
15 | Ashikaga Yoshiaki | 1537–1597 | Từ ngày 7 tháng 11 năm 1568 đến ngày 9 tháng 2 năm 1588 | Thiên hoàng Ōgimachi, Thiên hoàng Go-Yōzei |
Mạc phủ Tokugawa[31] | ||||
1 | Tokugawa Ieyasu | 1542–1616 | Từ ngày 24 tháng 3 năm 1603 đến ngày 2 tháng 6 năm 1605 | Thiên hoàng Go-Yōzei |
2 | Tokugawa Hidetada | 1579–1632[35] | Từ ngày 2 tháng 6 năm 1605 đến ngày 23 tháng 8 năm 1623 | Thiên hoàng Go-Yōzei, Thiên hoàng Go-Mizunoo |
3 | Tokugawa Iemitsu | 1604–1651 | Từ ngày 23 tháng 8 năm 1623 đến ngày 8 tháng 6 năm 1651 | Thiên hoàng Go-Mizunoo , Thiên hoàng Meishō, Thiên hoàng Go-Kōmyō |
4 | Tokugawa Ietsuna | 1641–1680 | Từ ngày 10 tháng 9 năm 1651 đến ngày 4 tháng 6 năm 1680 | Thiên hoàng Go-Kōmyō, Thiên hoàng Go-Sai, Thiên hoàng Reigen |
5 | Tokugawa Tsunayoshi | 1646–1709 | Từ ngày 12 tháng 8 năm 1680 đến ngày 19 tháng 2 năm 1709 | Thiên hoàng Reigen, Thiên hoàng Higashiyama |
6 | Tokugawa Ienobu | 1662–1712[35] | Từ ngày 11 tháng 5 năm 1709 đến ngày 12 tháng 11 năm 1712 | Thiên hoàng Higashiyama, Thiên hoàng Nakamikado |
7 | Tokugawa Ietsugu | 1709–1716 | Từ ngày 29 tháng 3 năm 1713 đến ngày 19 tháng 6 năm 1716 | Thiên hoàng Nakamikado |
8 | Tokugawa Yoshimune | 1684–1751 | Từ ngày 3 tháng 9 năm 1716 đến ngày 20 tháng 10 năm 1745 | Thiên hoàng Nakamikado, Thiên hoàng Sakuramachi |
9 | Tokugawa Ieshige | 1711–1761 | Từ ngày 30 tháng 10 năm 1745 đến ngày 25 tháng 6 năm 1760 | Thiên hoàng Sakuramachi, Thiên hoàng Momozono |
10 | Tokugawa Ieharu | 1737–1786 | Từ ngày 12 tháng 8 năm 1760 đến ngày 29 tháng 9 năm 1786 | Thiên hoàng Momozono, Thiên hoàng Go-Sakuramachi, Thiên hoàng Go-Momozono, Thiên hoàng Kōkaku |
11 | Tokugawa Ienari | 1773–1841[35] | Từ ngày 23 tháng 4 năm 1787 đến ngày 6 tháng 5 năm 1837 | Thiên hoàng Kōkaku, Thiên hoàng Ninkō |
12 | Tokugawa Ieyoshi | 1793–1853 | Từ ngày 4 tháng 9 năm 1837 đến ngày 22 tháng 7 năm 1853 | Thiên hoàng Ninkō, Thiên hoàng Kōmei |
13 | Tokugawa Iesada | 1824–1858 | Từ ngày 23 tháng 11 năm 1853 đến ngày 14 tháng 8 năm 1
1858 |
Thiên hoàng Kōmei |
14 | Tokugawa Iemochi | 1846–1866 | Từ ngày 30 tháng 11 năm 1858 đến ngày 29 tháng 8 năm 1866 | Thiên hoàng Kōmei |
15 | Tokugawa Yoshinobu | 1837–1913 | Từ ngày 10 tháng 1 năm 1867 đến ngày 3 tháng 1 năm 1868[36] | Thiên hoàng Kōmei, Thiên hoàng Minh Trị |
Shogun đầu tiên
sửaKhông có sự đồng thuận giữa các tác giả khác nhau vì một số nguồn coi Tajihi no Agatamori là người đầu tiên, những người khác cho là Ōtomo no Otomaro, nguồn khác cho rằng shogun đầu tiên là Sakanoue no Tamuramaro, trong khi những người khác tránh vấn đề bằng cách chỉ đề cập đến shogun Minamoto no Yoritomo nhà Kamakura.
Thời kỳ Heian (794–1185)
sửaBan đầu, danh hiệu Sei-i Taishōgun[5] được trao cho các chỉ huy quân đội trong đầu thời kỳ Heian trong suốt thời gian diễn ra các chiến dịch quân sự chống lại Emishi, những người chống lại sự quản lý của triều đình có trụ sở tại Kyoto. Ōtomo no Otomaro là Sei-i Taishōgun đầu tiên.[37] Người nổi tiếng nhất trong số các shogun này là Sakanoue no Tamuramaro.
Vào cuối thời Heian, một shogun nữa đã được bổ nhiệm. Minamoto no Yoshinaka được phong là sei-i taishōgun trong Chiến tranh Genpei, chỉ bị Minamoto no Yoshitsune giết ngay sau đó
Sakanoue no Tamuramaro
sửaSakanoue no Tamuramaro (758–811)[26] là một vị tướng Nhật Bản, người đã chiến đấu chống lại các bộ tộc ở phía bắc Nhật Bản (định cư trên lãnh thổ mà ngày nay thuộc các tỉnh Mutsu và Dewa). Tamarumaro là vị tướng đầu tiên đánh bại các bộ tộc này, sáp nhập lãnh thổ của họ vào lãnh thổ của Nhà nước Yamato. Vì những chiến công quân sự của mình, ông được phong là Seii Taishōgun và có lẽ bởi vì ông là người đầu tiên giành được chiến thắng trước các bộ lạc phía bắc nên ông thường được công nhận là vị Shogun đầu tiên trong lịch sử.[26][38][39] (Lưu ý: theo các nguồn lịch sử, Ōtomo no Otomaro cũng có danh hiệu là Seii Taishōgun).
Mạc phủ Kamakura (1192–1333)
sửaVào đầu thế kỷ 11, các daimyō được bảo vệ bởi samurai đã thống trị nội bộ nền chính trị Nhật Bản.[40] Hai trong số những gia tộc quyền lực nhất – Taira và Minamoto – chiến đấu để giành quyền kiểm soát triều đình đang bị suy giảm quyền lực. Gia tộc Taira nắm quyền kiểm soát từ năm 1160 đến năm 1185, nhưng bị nhà Minamoto đánh bại trong Trận Dan-no-ura. Minamoto no Yoritomo nắm quyền từ chính quyền trung ương và tầng lớp quý tộc và đến năm 1192 đã thành lập hệ thống phong kiến đặt tổng hành dinh tại Kamakura trong đó quân đội tư nhân, samurai, giành được một số quyền lực chính trị trong khi Thiên hoàng và quý tộc tại Heian vẫn là những người cai trị đất nước trên danh nghĩa.[41][42] Trong khi đó, Shogun tại Kamakura trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của Nhật Bản.
Năm 1192, Yoritomo được Thiên hoàng Go-Toba trao tặng danh hiệu Chinh di Đại Tướng quân (Sei-i Taishōgun) và hệ thống chính trị mà ông đã phát triển với sự kế thừa của các tướng quân khi người đứng đầu được gọi là Mạc phủ. Gia đình Hojo Masako (vợ của Yoritomo), Hōjō, nắm quyền lực từ các tướng quân Kamakura. [43] Khi các con trai và người thừa kế của Yoritomo bị ám sát, tướng quân đã trở thành người đứng đầu cha truyền con nối. Quyền lực thực sự thuộc về các nhiếp chính Hōjō. Mạc phủ Kamakura tồn tại gần 150 năm, từ 1192 đến 1333.
Sự kết thúc của Mạc phủ Kamakura xảy ra khi Kamakura sụp đổ vào năm 1333, và Gia tộc Hōjō bị tiêu diệt. Quyết tâm khôi phục quyền lực cho triều đình, năm 1331 Thiên hoàng Go-Daigo tìm cách lật đổ chế độ Mạc phủ. Kết quả là Daigo bị lưu đày. Khoảng năm 1334–1336, Ashikaga Takauji đã giúp Daigo giành lại ngai vàng của mình trong Tân chính Kenmu.[44]
Cuộc chiến chống lại Mạc phủ đã khiến Thiên hoàng có quá nhiều người đòi nguồn cung cấp đất đai hạn chế. Takauji quay lưng lại với Hoàng đế khi sự bất mãn về việc phân chia đất đai ngày càng lớn. Năm 1336, Thiên hoàng Go-Daigo lại bị trục xuất khỏi kinh đô và nhường chỗ cho một Thiên hoành mới,[44] dẫn đến việc thành lập Mạc phủ Ashikaga mới.
Trong thời kỳ Phục hưng Kenmu, sau khi Mạc phủ Kamakura sụp đổ vào năm 1333, một vị tướng quân tồn tại trong thời gian ngắn khác đã xuất hiện. Thân vương Moriyoshi (Morinaga), con trai của Thiên hoàng Go-Daigo, được phong tặng danh hiệu Sei-i Taishōgun. Tuy nhiên, Thân vương Moriyoshi sau đó bị quản thúc tại gia và, vào năm 1335, bị giết bởi Ashikaga Tadayoshi.
Mạc phủ Ashikaga (1336/1338–1573)
sửaNăm 1336[45] hoặc năm 1338,[4][46] Ashikaga Takauji, giống như Minamoto no Yoritomo, hậu duệ của các thân vương Minamoto,[4] đã được trao danh hiệu sei-i taishōgun và đã thành lập Mạc phủ Ashikaga, trên danh nghĩa tồn tại cho đến năm 1573. Ashikaga đặt mạc phủ ở quận Muromachi của Kyoto, và thời gian họ cai trị còn được gọi là thời kỳ Muromachi.
Trong năm mươi năm đầu tiên của Mạc phủ, Ashikaga đã không thể khẳng định quyền lực trên toàn bộ đất nước, vì hậu duệ của Go-Daigo đã thành lập chính quyền Nam triều thách thức quyền lực của họ trong Nanboku-chō. Cuối cùng vào năm 1392, Nam triều đầu hàng chính quyền Bắc triều và quyền lực của Mạc phủ.
Sau Chiến tranh Onin, quyền lực của các Tướng quân Ashikaga dần suy yếu và khi bắt đầu Thời kỳ Sengoku bị biến thành con rối của nhiều lãnh chúa khác nhau, cho đến khi Tướng quân Muromachi cuối cùng, Ashikaga Yoshiaki bị lật đổ bị phế truất vào năm 1573.
Thời kỳ Azuchi–Momoyama (1573–1603)
sửaThời kỳ Azuchi-Momoyama đề cập đến thời kỳ Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi nắm quyền. Cái tên "Azuchi-Momoyama" xuất phát từ thực tế là lâu đài của Nobunaga, Lâu đài Azuchi, nằm ở Azuchi, Shiga, và Lâu đài Fushimi, nơi Hideyoshi sống sau khi nghỉ hưu, nằm ở đó. ở Momoyama.[49] Mặc dù hai thủ lĩnh của tầng lớp chiến binh trong thời kỳ này không được phong tước hiệu Seii Taishōgun (征夷大将軍?, Chinh di Đại tướng quân), Oda Nobunaga đã được phong tước hiệu gần như ngang bằng, và Toyotomi Hideyoshi là một danh hiệu cao hơn. [48][50]
Thời đại này bắt đầu khi Oda Nobunaga trục xuất Ashikaga Yoshiaki khỏi Kyoto và tiêu diệt Mạc phủ Ashikaga. Nobunaga được phong tước hiệu Udaijin (右大臣?, Hữu đại thần), một vị trí chính thức là nhân vật số ba trong Triều đình kể từ thời cổ đại, và tước hiệu Ukon'e no Taishō (右近衛大将?, Hữu cận vệ Đại tướng), có nghĩa là thủ lĩnh của tầng lớp chiến binh. Danh hiệu này là một danh hiệu có uy tín cao được trao cho người đứng đầu tầng lớp chiến binh, tương tự như danh hiệu Seii Taishōgun (征夷大将軍?, shogun). Nobunaga đã bị phản bội bởi thuộc hạ của mình Akechi Mitsuhide, người đã chết trong sự kiện Honnō-ji.[51][50]
Tham khảo
sửa- ^ “Shogun”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
- ^ Beasley, William G. (1955). Select Documents on Japanese Foreign Policy, 1853–1868, p. 321.
- ^ Totman, Conrad (1966). “Political Succession in The Tokugawa Bakufu: Abe Masahiro's Rise to Power, 1843–1845”. Harvard Journal of Asiatic Studies. 26: 102–124. doi:10.2307/2718461. JSTOR 2718461.
- ^ a b c “Yamasa Online Kanji Dictionary”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2009. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “:0” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ a b The Modern Reader's Japanese-English Character Dictionary, ISBN 0-8048-0408-7
- ^ Friday, 2007:108.
- ^ Hall, 1991:241.
- ^ Adolphson, 2007:341.
- ^ Ishii, 2002:2396.
- ^ Ishii, 2002:2467.
- ^ Turnbull, 2006a:21 & 22.
- ^ There is no consensus among the various authors on this list since some sources consider Tajihi no Agatamori the first, some others take Ōtomo no Otomaro, other sources assure that the first was Sakanoue no Tamuramaro, while others avoid the problem by just mentioning from the first Kamakura shogun.
- ^ “巨勢麻呂”, Wikipedia (bằng tiếng Nhật), 15 tháng 11 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022
- ^ Cranston, 1998:361.
- ^ Samurai Archives. “Early Japan” (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2009.
- ^ “藤原宇合”, Wikipedia (bằng tiếng Nhật), 4 tháng 8 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022
- ^ “藤原麻呂”, Wikipedia (bằng tiếng Nhật), 4 tháng 8 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022
- ^ “藤原継縄”, Wikipedia (bằng tiếng Nhật), 5 tháng 11 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022
- ^ “藤原小黒麻呂”, Wikipedia (bằng tiếng Nhật), 4 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022
- ^ Cranston, 1998:427.
- ^ Sansom, 1931:201.
- ^ Cambridge University Press. “Cambridge Histories Online” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ Takekoshi, 2004:96.
- ^ Caiger, 1997:339.
- ^ Shively, 1999:xviii.
- ^ a b c De Bary et al., 2001:266.
- ^ a b c d The history files. “Shoguns of Japan” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2009.
- ^ Shively et al., 1999:30.
- ^ Adolphson et al, 2007:334.
- ^ Turnbull, 2005:16.
- ^ a b c Deal, 2007:100–101.
- ^ Perkins, 1998b:292.
- ^ a b Varley, 1994:243.
- ^ a b Perkins, 1998b:295.
- ^ a b c Murdoch, 1996:791.
- ^ Deal, 2007:48.
- ^ 征夷大将軍―もう一つの国家主権 (bằng tiếng Nhật). Books Kinokuniya. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
- ^ Andressen & Osborne, 2002:48.
- ^ Ramirez-faria, 283.
- ^ “Shogun”. The World Book Encyclopedia. 17. World Book. 1992. tr. 432–433. ISBN 0-7166-0092-7.
- ^ Nussbaum, Louis-Frédéric. (2005). "Kamakura-jidai" in Japan Encyclopedia, p. 459.
- ^ "...not only was the Heian system of imperial-aristocratic rule still vigorous during the twelfth century, but also it remained the essential framework within which the bakufu, during its lifetime, was obliged to operate. In this sense, the Heian pattern of government survived into the fourteenth century – to be destroyed with the Kama-kura bakufu rather than by it." Warrior Rule in Japan, p. 1. Cambridge University Press.
- ^ “shogun | Japanese title”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập 21 tháng 8 năm 2017.
- ^ a b Sansom, George (1961). A History of Japan, 1134–1615. United States: Stanford University Press.
- ^ Grossberg, Kenneth A. (1976). “From Feudal Chieftain to Secular Monarch. The Development of Shogunal Power in Early Muromachi Japan”. Monumenta Nipponica. 31 (1): 34. doi:10.2307/2384184. ISSN 0027-0741. JSTOR 2384184.
- ^ thời gian bắt đầu mạc phủ mâu thuẫn nhau là 1336 và 1338 được liệt kê trên nhiều nguồn khác nhau.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênasahi240923
- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênnikkei140117
- ^ 安土桃山時代 (bằng tiếng Nhật). Kotobank. Bản gốc lưu trữ 25 tháng 12 năm 2023. Truy cập 9 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b 織田信長に与えられた官位「右近衛大将」が意味すること (bằng tiếng Nhật). 10m TV. Bản gốc lưu trữ 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập 9 tháng 3 năm 2024.
- ^ 「麒麟がくる」コラム】織田信長はどんどん昇進。信長は官職についてどう考えていたのか (bằng tiếng Nhật). Yahoo News. 6 tháng 1 năm 2021. Bản gốc lưu trữ 7 tháng 3 năm 2024. Truy cập 9 tháng 3 năm 2024.