Bước tới nội dung

Zawisza Czarny

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zawisza Czarny
Zawisza Czarny trong một chi tiết của bức tranh vẽ Trận Grunwald của Jan Matejko
Sinhk. 1379
Stary Garbów, Vương quốc Ba Lan
Mấtngày 12 tháng 6 năm 1428
Golubac, Serbian Despotate
Quân chủngCavalry
Cấp bậcHiệp sĩ
Tưởng niệmPháo đài Golubac
Người thânPhù hiệu áo giáp Sulima

Zawisza Czarny ([zaˈvʲiʂa ˈt͡ʂarn̪ɨ] hay Zawisza Đen; k. năm 1379 – ngày 12 tháng 6 năm 1428), Phù hiệu áo giáp Sulima, là một Hiệp sĩGiới quý tộc Ba Lan phục vụ như một chỉ huy và nhà ngoại giao dưới thời vua Ba Lan Władysław II Jagiełło và vua Hungary-Bohemia Sigismund của Thánh chế La Mã. Thời gian còn sống, ông được xem là hình mẫu của Bộ quy tắc hiệp sĩ và nổi tiếng nhờ nhiều lần chiến thắng các giải đấu. Biệt danh của ông bắt nguồn từ màu tóc đen và các trang phục may đo phù hợp và áp giáp đen hiện vẫn được lưu giữ tại Tu viện Jasna Góra.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Zawisza sinh ra tại Stary Garbów, Vương quốc Ba Lan (phía đông nam Ba Lan ngày nay), trong một gia đình quý tộc địa phương (của Sulima), cha của ông là Mikołaj - người cai quản lâu đài của Konary-Sieradz (konarsko-sieradzki), còn mẹ có tên là Dorota. Ông có hai người em trai: Jan được gọi tên "Farurej", là starost (tạm dịch: quản gia) của Spiš; và Piotr có tên gọi "Kruczek". Năm 1397, Zawisza kết hôn với Barbara của gia tộc Piława, cháu gái của Giám mục Kraków Piotr Wysz Radoliński, và họ có với nhau bốn người con trai.

1410–1419

[sửa | sửa mã nguồn]
Phù hiệu áp giáp Sulima

Sau thời gian ngắn phục vụ trong Hiệp sĩ Teuton, ông sớm từ bỏ giáo đoàn,[1] và năm 1410, ông tham gia vào Trận Grunwald ở phe Ba Lan. Sau trận đánh, ông và người bạn thân của mình là Stibor of Stiboricz đã đề nghị một hiệp ước hòa bình giữa vua Jagiełło của Ba Lan và Sigismund của Luxembourg sau này là Vua của Hungary, hiệp ước này cũng được biết đến với tên gọi Hiệp ước Lubowla. Năm 1412, ông tham gia vào cuộc hội kiến giữa Sigismund, Wladyslaw II và Tvrtko II của Bosnia tại Buda, cũng là nơi ông chiến thắng một giải đấu được tổ chức tại đây với sự có mặt của 1,500 hiệp sĩ.

Ban thưởng 800 grzywna của Vua Jagiełło cho Zawisza Czarny vào năm 1414.

Zawisza là một nhà ngoại giao hơn là một chiến binh, giữ vị trí công sứ của Vua Ba Lan Władysław II và vua Hungary-Bohemia Sigismund của Luxembourg. Là một trong sáu nhà ngoại giao đại diện cho Vương quốc Ba Lan và Vua Władysław II tại Công đồng Constance, ông là một trong số ít người ủng hộ Jan Hus, cho nên sau đó việc kết án và tử hình ông vì dị giáo đã bị lên án mạnh mẽ.

Năm 1416, ông tham gia vào một giải đấu ở Perpignan, tại đây ông đã đánh bại hiệp sĩ nổi tiếng là Juan II của Aragon. Năm sau, ông trở thành starost (tạm dịch: quản gia) của Kruszwica. Năm 1419, một lần nữa ông đi Sigismund với tư cách là người đại diện của Vua Władysław II, yêu cầu giúp đỡ từ phía Sophia của Bavaria, góa phụ của anh trai Sigismund là Wenceslaus của Bohemia. Sau đó, Zawisza tham gia Chiến tranh Hussite ở phe của Vua Sigismund. Thất bại của Sigismund ở tại Kutná Hora (ngày 21 tháng 12 năm 1421), Zawisza đã bị những người Hussite bắt làm tù binh và sau đó được thả để đổi lấy số tiền chuộc lớn.

Chiến tranh chống lại người Ottoman và hy sinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1428, Zawisza là chỉ huy đội của một đoàn tùy tùng kỵ binh hạng nhẹ với 500 kỵ sĩ, đã tham gia vào lực lượng của Sigismund trong cuộc chiến của nhà vua chống lại người Turk Ottoman. Trong chiến dịch thảm khốc đó, ông đã chiến đấu với họ tại Bao vây Golubac trên Sông Danube thuộc Serbia ngày nay. Quân đội của Sigismund đã bị đánh bại và buộc phải rút lui qua sông Danube chỉ với một vài chiếc thuyền để đưa quân đến nơi an toàn. Nhóm của Zawisza bảo vệ đội quân đang rút lui. Là người quan trọng trong quân ngũ, ông được đích thân Vua Sigismund gửi gắm. Chán nản trước sự hèn nhát của nhà vua, ông bị cáo buộc là từ chối lui quân khi nói rằng "Không có thuyền nào đủ lớn để nâng nổi danh dự của tôi." Ông có thể đã bị giết trong chiến trận tại Golubac hoặc bị xử tử trong tù giam của Ottoman.

Gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Zawisza sống sót nhờ vợ mình là Barbara và các con:

Jan Tarnowski
Henryk Dobrzański

Chái gái của ông là Barbara của Roznow - mẹ của chỉ huy quân đội Phục hưng Ba Lan, hetman (tạm dịch: chỉ huy) Jan Tarnowski. Trong số những hậu duệ của Zawisza còn có Hetman Stanisław Koniecpolski, Bogusław Radziwiłł, Thống đốc của Công quốc PhổHenryk Dobrzański, chỉ huy Chiến tranh du kích đầu tiên của Thế chiến thứ Hai ở Châu Âu.

Trong suốt cuộc đời, ông được xem là hình mẫu của Bộ quy tắc hiệp sĩ.[4] Sau khi mất, ông được nhà sử học Ba Lan Jan Długosz, nhà thơ và Phúc âm của Gniezno Adam Świnka, và Vua Sigismund của Luxembourg khen ngợi. Zawisza trở thành một anh hùng dân gian của Ba Lan, nổi tiếng về sự tin cậy và lòng trung thành. Một phần lời tuyên thệ của Hướng đạo sinh Ba Lan là: "...polegać na nim jak na Zawiszy" ('[bạn có thể] dựa vào họ như dựa vào Zawisza'). Một vài câu lạc bộ bóng đá và nhiều nhóm thể thao khác ở Ba Lan được đặt tên theo tên ông, trong đó có đội Zawisza Bydgoszcz.

Ở Serbia, nơi có Pháo đài Golubac và là nơi ông được biết đến với cái tên Zaviša Crni (Bản mẫu:Lang-sr-Cyr), ông được tôn kính như một hiệp sĩ dũng cảm. Một đài tưởng niệm Zawisza tại Pháo đài Golubac mang dòng chữ: "Ở Golubac, cuộc đời của ông đã bị những người Turk tước đi năm 1428, người hiệp sĩ Ba Lan nổi tiếng, biểu tượng của lòng dũng cảm và danh dự, Zawisza Đen. Vinh danh người anh hùng!" Ngoài ra, ở pháo đài được xây dựng lại, có một triển lãm cố định tôn vinh các hiệp sĩ đã bảo vệ pháo đài, với một khu vực đặc biệt dành cho Zawisza.[5][6] Tại Beograd, thủ đô của Serbia, có một con đường mang tên ông, ở vùng lân cận Senjak (Улица Завише Црног/Ulica Zaviše Crnog).[7]

Một vài bộ phim truyền hình đã được dựng dựa trên cuộc đời của ông.

Thư mục tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Beata Możejko; Sobiesław Szybkowski; Błażej Śliwiński (2003). Zawisza Czarny z Garbowa herbu Sulima. Wydawn. WiM. ISBN 978-83-918873-4-9.
  • Anna Klubówna (1974). Zawisza Czarny w historii i legendzie. Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza.
  • Katarzyna Beliniak (2007). Zawisza Czarny - człowiek legenda. De Agostini Polska. ISBN 978-83-248-0627-0.
  • Stefan M. Kuczyński (1983). Zawisza Czarny: powieść historyczna. Śląsk. ISBN 978-83-216-0317-9.
  • Ignacy Kozielewski (1928). Zawisza Czarny. Dobra Prasa.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ August von Kotzebue: Preußens Ältere Geschichte, tr. 408, tại Google Books, Riga 1808: Schwarze Sawisch
  2. ^ “informacje z zeszytu historycznego Rzeczpospolitej "Batalie i wodzowie wszech czasów", Nr 21, "Władysław III pod Warną", 7 czerwca 2008, str. 13 – "Zgubna decyzja Władysława". Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2020.
  3. ^ “Zawisza Czarny z Grabowa – Herbu Sulima”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2020.
  4. ^ Obszerny życiorys, wg informacji ze strony 77 DSH im. Zawiszy Czarnego (hufiec Bytom)
  5. ^ Dragoljub Stevanović (ngày 30 tháng 9 năm 2018). “Крузери под Голубачком тврђавом - Легенде уз мед и вино” [Cruisers under the Golubac Fortress - Legends with honey and wine]. Politika-Magazin, No. 1096 (bằng tiếng Serbia). tr. 20–21.
  6. ^ Andrijana Cvetićanin (ngày 14 tháng 1 năm 2018). “Zanimljiva Srbija: Golubački grad - Bele kule na Dunavu” [Interesting Serbia: Golubac Fortress - White towers on the Danube]. Politika-Magazin, No. 1059 (bằng tiếng Serbia). tr. 20–21.
  7. ^ Службени лист Града Београда, број 119/18 [Official Gazette of City of Belgrade, No. 119/18]. Belgrade: City of Belgrade. ngày 21 tháng 12 năm 2018. tr. 80. ISSN 0350-4727.