Vương quốc Hồi giáo Funj
Vương quốc Hồi giáo Xanh / Vương quốc Hồi giáo Funj
|
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||
1504–1821 | |||||||||
Dấu đóng lên người (al-wasm) của vương quốc Funj
| |||||||||
Vương quốc Hồi giáo Funj vào khoảng năm 1700, khi có lãnh thổ rộng nhất | |||||||||
Tổng quan | |||||||||
Vị thế | Liên minh của các vương quốc và tiểu quốc bộ lạc phụ thuộc dưới quyền bá chủ của Sennar[4] | ||||||||
Thủ đô | Sennar | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Ả Rập (ngôn ngữ chính thức, lingua franca và ngôn ngữ Hồi giáo, được sử dụng ngày càng nhiều)[1] các ngôn ngữ Nubia (tiếng mẹ đẻ, ngày càng bị thay thế bởi tiếng Ả Rập)[2] | ||||||||
Tôn giáo chính | Hồi giáo,[3] Chính thống giáo Copt | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân chủ Hồi giáo | ||||||||
Sultan | |||||||||
• 1504–1533/4 | Amara Dunqas (đầu tiên) | ||||||||
• 1805–1821 | Badi VII (cuối cùng) | ||||||||
Lập pháp | Đại Hội đồng Shura[5] | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Cận đại | ||||||||
• Thành lập | 1504 | ||||||||
14 June 1821 | |||||||||
• Sáp nhập vào Tỉnh Ai Cập, Đế quốc Ottoman[a] | 13 tháng 2 năm 1841 | ||||||||
Kinh tế | |||||||||
Đơn vị tiền tệ | Vật đổi chác[c] | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Sudan Eritrea Ethiopia | ||||||||
^ a. Muhammad Ali của Ai Cập được trao quyền thống đốc không cha truyền con nối của Sudan vào năm 1841.[6]
^ b. Ước tính cho toàn bộ khu vực được bao phủ bởi Sudan hiện đại.[7] ^ c. Người Funj hầu như không đúc tiền xu và các chợ hiếm khi sử dụng tiền đúc để trao đổi hàng hóa.[8] Tiền đúc không phổ biến ở các thành phố cho đến thế kỷ 18. Bác sĩ phẫu thuật người Pháp J. C. Poncet, người đã đến thăm Sennar vào năm 1699, nói rằng họ sử dụng các đồng tiền nước ngoài như đồng Real Tây Ban Nha.[9] |
Vương quốc Hồi giáo Funj, còn gọi là Funjistan, Vương quốc Hồi giáo Sennar (theo tên thủ đô là Sennar) hay Vương quốc Hồi giáo Xanh do phong tục truyền thống gọi người da đen là da xanh[10] (tiếng Ả Rập: السلطنة الزرقاء, chuyển tự al-Sulṭanah al-Zarqāʼ),[11] là một nhà nước quân chủ ở khu vực ngày nay là Sudan, tây bắc Eritrea và tây Ethiopia. Được thành lập vào năm 1504 bởi người Funj, vương quốc nhanh chóng chuyển sang đạo Hồi, mặc dù điều này chỉ là trên danh nghĩa. Cho đến khi một nền Hồi giáo chính thống hơn nắm quyền vào thế kỷ 18, nhà nước vẫn là một "đế chế châu Phi với bề ngoài Hồi giáo".[12] Nó đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 17, nhưng suy tàn và cuối cùng tan rã vào thế kỷ 18 và 19. Năm 1821, vị sultan cuối cùng, bị suy giảm quyền lực rất nhiều, đã đầu hàng trước cuộc xâm lược của Ai Cập-Ottoman mà không chiến đấu.[13]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Nubia Thiên Chúa giáo, đại diện bởi hai vương quốc thời Trung Cổ là Makuria và Alodia, bắt đầu suy tàn từ thế kỷ XII.[14] Đến năm 1365, Makuria hầu như sụp đổ và bị giới hạn ở Hạ Nubia, cho đến khi biến mất khoảng 150 năm sau.[15] Số phận của Alodia kém rõ ràng hơn.[14] Có ý kiến cho rằng nước này đã sụp đổ sớm nhất vào thế kỷ 12 hoặc ngay sau đó, vì di tích khảo cổ học cho rằng vào thời kỳ này, Soba không còn là thủ đô của vương quốc.[16] Vào thế kỷ 13, miền trung Sudan dường như đã tan rã thành nhiều tiểu quốc khác nhau.[17] Giữa thế kỷ 14 và 15, Sudan bị các bộ lạc Bedouin thống trị.[18] Vào thế kỷ 15, một trong những người Bedouin này, theo truyền thống là Abdallah Jammah, đã kiến lập một liên minh bộ lạc và sau đó phá hủy tàn tích của Alodia. Vào đầu thế kỷ 16, liên minh của Abdallah bị tấn công bởi quân xâm lược từ phía nam, người Funj.[19]
Mối quan hệ về mặt dân tộc của người Funj vẫn còn gây tranh cãi. Hai lý thuyết đầu trong số ba lý thuyết nổi bật hơn cả cho rằng họ là người Nubia hoặc Shilluk, trong khi theo lý thuyết thứ ba, người Funj không phải dân tộc mà là một tầng lớp xã hội.[cần dẫn nguồn]
Vào thế kỷ 14, một thương nhân Funj theo đạo Hồi tên là al-Hajj Faraj al-Funi đã tham gia vào hoạt động buôn bán trên Biển Đỏ.[20] Theo lịch sử truyền miệng, dân tộc Dinka, những người di cư ngược dòng sông Nin Trắng và Nin Xanh kể từ khi Alodia tan rã vào thế kỷ 13, đã xung đột với người Funj và bị đánh bại.[21] Vào cuối thế kỷ 15/đầu thế kỷ 16, người Shilluk đến ngã ba sông Sobat và sông Nin Trắng, nơi họ chạm trán với một dân tộc không di trú mà họ gọi là Apfuny, Obwongo và/hoặc Dongo, một dân tộc ngày nay được coi là người Funj. Được cho là tinh vi hơn người Shilluk, họ đã bị đánh bại trong một loạt các cuộc chiến tàn khốc[22] và bị đồng hóa hoặc bị đẩy lên phía bắc.[23] Phong trào tuyên truyền chống Funj ở thời kỳ cuối của vương quốc gọi người Funj là "những kẻ ngoại đạo từ sông Nin Trắng" và "những kẻ man rợ" có nguồn gốc từ "những đầm lầy nguyên thủy phía nam".[24]
Vào năm 1504 người Funj đánh bại Abdallah Jammah và thành lập vương triều Funj.[25]
Ottoman đe dọa và khởi nghĩa Ajib
[sửa | sửa mã nguồn]Cải trang thành một Sharif, du khách người Do Thái David Reubeni đã đến thăm vương quốc năm 1523.[26] Reubeni viết rằng quốc vương Amara Dunqas liên tục đi thăm thú vương quốc của mình. Ông là nhà "cai trị người da đen và người da trắng"[27] giữa khu vực phía nam ngã ba sông Nin cho đến tận phía bắc Dongola,[26] sở hữu những đàn gia súc lớn và chỉ huy nhiều tướng lĩnh trên lưng ngựa.[27] Hai năm sau, đô đốc Ottoman Selman Reis đề cập đến Amara Dunqas và vương quốc của ông ta, cho rằng nó yếu và dễ bị chinh phục. Ông cũng tuyên bố rằng Amara đã cống nạp 9.000 con lạc đà hàng năm cho Đế quốc Ethiopia.[28] Một năm sau, người Ottoman chiếm đóng Sawakin,[29] nơi trước đây nằm trong lãnh thổ Sennar.[30] Có vẻ như để chống lại sự bành trướng của Ottoman ở khu vực Biển Đỏ, người Funj đã liên minh với Ethiopia. Bên cạnh lạc đà, người Funj được biết là đã xuất khẩu ngựa sang Ethiopia, sau đó sử dụng chúng trong cuộc chiến chống lại người Hồi giáo ở Zeila và sau đó là người Ottoman.[31]
Trước khi người Ottoman có chỗ đứng ở Ethiopia, Özdemir Pasha được bổ nhiệm làm Beylerbey của Habesh Eyalet vào năm 1555 (khi đó chưa bị chinh phục). Ông cố gắng hành quân ngược dòng sông Nin để chinh phục Funj, nhưng quân đội của ông đã nổi dậy khi họ đến gần ghềnh đầu tiên của sông.[32] Tuy nhiên, cho đến năm 1570, người Ottoman đã thiết lập căn cứ ở Qasr Ibrim thuộc Hạ Nubia, rất có thể là một động thái phủ đầu nhằm bảo vệ Thượng Ai Cập khỏi sự xâm lược của Funj.[33] Mười bốn năm sau, Ottoman tiến xa về phía nam đến ghềnh sông Nin thứ ba rồi cố gắng chinh phục Dongola, nhưng đến năm 1585, họ đã bị người Funj đánh bại trong trận chiến Hannik.[34] Chiến trường nằm ngay phía nam ghềnh thứ ba sẽ đánh dấu biên giới giữa hai vương quốc.[35] Vào cuối thế kỷ 16, người Funj tiến về vùng lân cận Habesh Eyalet, chinh phục vùng tây bắc Eritrea.[36] Do không thể tiến công vương quốc Funj và Ethiopia, Ottoman từ bỏ chính sách bành trướng của họ.[37] Do đó từ những năm 1590 trở đi, mối đe dọa từ Ottoman đã chấm dứt khiến liên minh Funj-Ethiopia trở nên không cần thiết, và quan hệ giữa hai quốc gia dần chuyển sang trạng thái thù địch công khai.[38] Tuy nhiên, vào cuối năm 1597, mối quan hệ này vẫn được mô tả là thân thiện khi thương mại đang phát triển.[39]
Trong khi đó, thời sultan Dakin (1568–1585) chứng kiến vị vua nhỏ cai trị miền bắc Nubia Ajib trỗi dậy. Khi Dakin trở về sau một chiến dịch thất bại ở vùng biên giới Ethiopia-Sudan, Ajib đã có đủ quyền lực để đòi quyền tự trị cao hơn. Vài năm sau, ông ta ép sultan Tayyib kết hôn với con gái của mình, khiến Tayyib và con cháu bao gồm người kế vị Unsa trở thành chư hầu của ông. Abd al-Qadir II sau đó phế truất Unsa vào năm 1603/1604, khiến Ajib xâm chiếm miền trung nước Funj. Quân đội của ông đẩy lùi vua Funj về phía đông nam. Như vậy, Ajib đã cai trị một đế chế trải dài từ Dongola đến tận Ethiopia. Sau khi mất ngôi vào tháng 12 năm 1606, al-Qadir II trốn sang Ethiopia và quy phục hoàng đế Susenyos,[40] tạo cơ hội cho Susenyos can thiệp vào công việc của vương quốc.[41] Tuy nhiên, sultan mới của Funj Adlan I đã tìm cách lật ngược tình thế cuộc chiến chống lại Ajib,[42] cuối cùng giết chết ông vào năm 1611 hoặc 1612.[43] Trong khi đánh đuổi tàn quân của Ajib về phía bắc, chính Adlan đã bị phế truất và được con trai cựu vương Abd al-Qadir II, Badi I kế vị. Ông ban hành một hiệp ước hòa bình với các con trai của Ajib, đồng ý chia cắt nhà nước Funj. Những người kế vị Ajib, tức bộ lạc Abdallab, sẽ cai quản lãnh thổ ở phía bắc hợp lưu sông Nin Xanh và Trắng đồng thời cai trị với tư cách vua chư hầu Sennar. Điều này khiến người Funj mất quyền kiểm soát trực tiếp phần lớn vương quốc.[44]
Trong hai năm 1618-1619, nhà cai trị Medri Bahri Bahr Negash Gebre Mariam hỗ trợ Hoàng đế Susneyos trong một chiến dịch quân sự chống lại Vương quốc Hồi giáo Sennar. Hoàng đế Susneyos cử Bahr Gebre tấn công Mandara, nơi nữ hoàng Fatima kiểm soát một con đường lữ hành chiến lược từ Suakin. Bahr Negash đã bắt được Nữ hoàng Fatima, sau đó đưa bà này trở lại cung điện của Hoàng đế Susenyos ở Danqaz (Gorgora) và ra lệnh tiếp tục phục tùng Đế chế Ethiopia.[45]
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Ngôn ngữ
[sửa | sửa mã nguồn]Trong thời kỳ Cơ đốc giáo, các ngôn ngữ Nubia đã được sử dụng giữa khu vực từ Aswan ở phía bắc đến một điểm chưa xác định ở phía nam, nơi hợp lưu của sông Nin Xanh và Nin Trắng.[46] Chúng vẫn quan trọng trong thời kỳ Funj, nhưng dần dần tiếng Ả Rập thay thế[2] ở miền trung Sudan vào thế kỷ 19.[47]
Sultan
[sửa | sửa mã nguồn]Những nhà cai trị Sennar mang tước hiệu Mek (sultan). Năm trị vì của họ có sự khác biệt tùy theo từng nguồn.[48][49]
- Amara Dunqas 1503-1533/4 (AH 940)
- Nayil 1533/4 (AH 940)-1550/1 (AH 957)
- Abd al-Qadir I 1550/1 (AH 957)-1557/8 (AH 965)
- Abu Sakikin 1557/8 (AH 965)-1568
- Dakin 1568-1585/6 (AH 994)
- Dawra 1585/6 (AH 994)-1587/8 (AH 996)
- Tayyib 1587/8 (AH 996)-1591
- Unsa I 1591-1603/4 (AH 1012)
- Abd al-Qadir II 1603/4 (AH 1012)-1606
- Adlan I 1606-1611/2 (AH 1020)
- Badi I 1611/2 (AH 1020)-1616/7 (AH 1025)
- Rabat I 1616/7 (AH 1025)-1644/5
- Badi II 1644/5-1681
- Unsa II 1681–1692
- Badi III 1692–1716
- Unsa III 1719–1720
- Nul 1720–1724
- Badi IV 1724–1762
- Nasir 1762–1769
- Isma'il 1768–1776
- Adlan II 1776–1789
- Awkal 1787–1788
- Tayyib II 1788–1790
- Badi V 1790
- Nawwar 1790–1791
- Badi VI 1791–1798
- Ranfi 1798–1804
- Agban 1804–1805
- Badi VII 1805–1821
Nhiếp chính vương Hamaj
[sửa | sửa mã nguồn]- Muhammad Abu Likayik – 1769–1775/6
- Badi walad Rajab – 1775/6–1780
- Rajab 1780–1786/7
- Nasir 1786/7–1798
- Idris wad Abu Likayik – 1798–1803
- Adlan wad Abu Likayik – 1803
- Wad Rajab – 1804–1806
Bản đồ
[sửa | sửa mã nguồn]-
Bản đồ của Guillaume Delisle (1701)
-
Bản đồ của Jean Baptiste Bourguignon d'Anville (1749)
-
Bản đồ của nhà du hành James Bruce, người đi ngang qua nước này vào đầu những năm 1770
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ McHugh 2004, tr. 9 , "The spread of Arabic flowed not only from the dispersion of Arabs but from the unification of the Nile by a government, the Funj sultanate, that utilized Arabic as an official means of communication, and from the use of Arabic as a trade language."
- ^ a b James 2008, tr. 68–69.
- ^ Trimingham, J. Spencer (1996). “Islam in Sub-Saharan Africa, till the 19th century”. The Last Great Muslim Empires. History of the Muslim World, 3. Abbreviated and adapted by F. R. C. Bagley (ấn bản thứ 2). Princeton, NJ: Markus Wiener Publishers. tr. 167. ISBN 978-1-55876-112-4.
The date when the Funj rulers adopted Islam is not known, but must have been fairly soon after the foundation of Sennār, because they then entered into relations with Muslim groups over a wide area.
- ^ Bản mẫu:Country study
- ^ Welch, Galbraith (1949). North African Prelude: The First Seven Thousand Years (snippet view). New York: W. Morrow. tr. 463. OCLC 413248. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
The government was semirepublican; when a sultan died the great council picked a successor from among the royal children. Then—presumably to keep the peace—they killed all the rest.
- ^ “Text Viewer” فرمان سلطاني إلى محمد علي بتقليده حكم السودان بغير حق التوارث [Sultanic Firman to Muhammad Ali Appointing Him Ruler of the Sudan Without Hereditary Rights] (bằng tiếng Ả Rập). Bibliotheca Alexandrina: Memory of Modern Egypt Digital Archive. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
- ^ Avakov, Alexander V. (2010). Two Thousand Years of Economic Statistics: World Population, GDP, and PPP. New York: Algora Publishing. tr. 18. ISBN 978-0-87586-750-2.
- ^ Anderson, Julie R. (2008). “A Mamluk Coin from Kulubnarti, Sudan” (PDF). British Museum Studies in Ancient Egypt and Sudan (10): 68. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
Much further to the south, the Funj Sultanate based in Sennar (1504/5–1820), rarely minted coins and the markets did not normally use coinage as a form of exchange. Foreign coins themselves were commodities and frequently kept for jewellery. Units of items such as gold, grain, iron, cloth and salt had specific values and were used for trade, particularly on a local level.
- ^ Pinkerton, John (1814). “Poncet's Journey to Abyssinia”. A General Collection of the Best and Most Interesting Voyages and Travels in All Parts of the World. 15. London: Longman, Hurst, Rees, and Orme. tr. 71. OCLC 1397394.
- ^ Bender, M. Lionel (1983). “Color Term Encoding in a Special Lexical Domain: Sudanese Arabic Skin Colors”. Anthropological Linguistics. 25 (1): 19–27. JSTOR 30027653. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
- ^ Ogot 1999, p. 91
- ^ Loimeier 2013, tr. 141.
- ^ Alan Moorehead, The Blue Nile, revised edition (New York: Harper and Row, 1972), p. 215
- ^ a b Grajetzki 2009, tr. 117.
- ^ Werner 2013, tr. 143–146.
- ^ Grajetzki 2009, tr. 123.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 19.
- ^ Hasan 1967, tr. 176.
- ^ Loimeier 2013, tr. 140–141.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 22.
- ^ Beswick 2004, tr. 32–33.
- ^ Beswick 2014, tr. 108–110.
- ^ Beswick 2004, tr. 33.
- ^ Spaulding 1985, tr. 210.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 25–26.
- ^ a b O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 23.
- ^ a b Crawford 1951, tr. 136.
- ^ Peacock 2012, tr. 91.
- ^ Peacock 2012, tr. 98.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 26.
- ^ Peacock 2012, tr. 98–101.
- ^ Ménage 1988, tr. 143–144.
- ^ Ménage 1988, tr. 145–146.
- ^ Peacock 2012, tr. 96–97.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 35.
- ^ Smidt 2010, tr. 665.
- ^ Peacock 2012, tr. 97.
- ^ Peacock 2012, tr. 101–102.
- ^ Aregay & Selassie 1971, tr. 64.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 36–38.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 60.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 38.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 36.
- ^ O'Fahey & Spaulding 1974, tr. 38–40.
- ^ James Bruce, Travels to Discover the Source of the Nile, vol. 2.
- ^ Werner 2013, tr. 28–29.
- ^ Edwards 2004, tr. 260.
- ^ MacMichael, H. A. (1922). “Appendix I: The Chronology of the Fung Kings”. A History of the Arabs in the Sudan and Some Account of the People Who Preceded Them and of the Tribes Inhabiting Dárfūr. II. Cambridge University Press. tr. 431. OCLC 264942362.
- ^ Holt, Peter Malcolm (1999). “Genealogical Tables and King-Lists”. The Sudan of the Three Niles: The Funj Chronicle 910–1288 / 1504–1871. Islamic History and Civilization, 26. Leiden: BRILL. tr. 182–186. ISBN 978-90-04-11256-8.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Aregay, Merid Wolde; Selassie, Sergew Hable (1971). “Sudanese-Ethiopian Relations Before the 19th Century”. Trong Yusuf Fadl Hasan (biên tập). Sudan in Africa. Khartoum University. tr. 62–72. OCLC 248684619.
- Beswick, Stephanie (2004). Sudan's Blood Memory. University of Rochester. ISBN 978-1580462310.
- Beswick, Stephanie (2014). “The Role of Slavery in the Rise and Fall of the Shilluk Kingdom”. Trong Souad T. Ali; và đồng nghiệp (biên tập). The Road to the Two Sudans. Cambridge Scholars. tr. 108–142. ISBN 9781443856324.
- Bruce, James (1790). Travels to Discover the Source of the Nile. IV. J. Ruthven.
- Chataway, J. D. P. (1930). “Notes on the history of the Fung” (PDF). Sudan Notes and Records. 13: 247–258. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- Connel, Dan; Killion, Tom (2011). Historical Dictionary of Eritrea. The Scarecrow. ISBN 9780810875050.
- Crawford, O. G. S. (1951). The Fung Kingdom of Sennar. John Bellows LTD. OCLC 253111091.
- Crowfoot, J. W. (1918). “The sign of the cross” (PDF). Sudan Notes and Records. 1: 55–56, 216. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- Edwards, David (2004). The Nubian Past: An Archaeology of the Sudan. Routledge. ISBN 978-0-415-36987-9.
- Etefa, Tsega Endalew (2006). Inter-ethnic Relations on a Frontier: Mätakkäl (Ethiopia), 1898-1991. Harassowitz. ISBN 978-3-447-05442-3.
- Grajetzki, Wolfram (2009). “Das Ende der christlich-nubischen Reiche” (PDF). Internet-Beiträge zur Ägyptologie und Sudanarchäologie. X. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- Hammarström, Harald (2018). “A survey of African languages”. The Languages and Linguistics of Africa. De Gruyter Mouton. tr. 1–57. ISBN 9783110421668.
- Hasan, Yusuf Fadl (1967). The Arabs and the Sudan. From the seventh to the early sixteenth century. Edinburgh University. OCLC 33206034.
- Holt, Peter Malcolm (1975). “Chapter 1: Egypt, the Funj and Darfur”. Trong Fage, J. D.; Oliver, Roland (biên tập). The Cambridge History of Africa. 4: from c. 1600 to c. 1790. Cambridge University Press. tr. 14–57. ISBN 978-0-521-20413-2.
- Insoll, Timothy (2003). The Archaeology of Islam in Sub-Saharan Africa. Cambridge University. ISBN 978-0521651714.
- James, Wendy (2008). “Sudan: Majorities, Minorities, and Language Interactions”. Trong Andrew Simpson (biên tập). Language and National Identity in Africa. Oxford University. tr. 61–78. ISBN 978-0199286744.
- Kropp, Manfred (1996). “Äthiopisch–sudanesische Kriege im 18. Jhdt.”. Der Sudan in Vergangenheit und Gegenwart (bằng tiếng Đức). Peter Lang. tr. 111–131. ISBN 3631480911.
- Loimeier, Roman (2013). Muslim Societies in Africa: A Historical Anthropology. Indiana University.
- McGregor, Andrew James (2006). A Military History of Modern Egypt: From the Ottoman Conquest to the Ramadan War. Praeger. ISBN 0275986012.
- McHugh, Neil (1994). Holymen of the Blue Nile: The Making of an Arab-Islamic Community in the Nilotic Sudan. Northwestern University. ISBN 0810110695.
- Ménage, V. L. (1988). “The Ottomans and Nubia in the Sixteenth Century”. Annales Islamoloiques. Institut français d'archéologie orientale du Caire. 24: 137–153.
- Miran, Jonathan (2010). “Constructing and deconstructing the Tigre frontier space in the long nineteenth century”. Trong Gianfrancesco Lusini (biên tập). History and Language of the Tigre-Speaking Peoples. Proceedings of the International Workshop, Naples, February 7-8, 2008. Università di Napoli. tr. 33–50. ISBN 9788895044682.
- Nassr, Ahmed Hamid (2016). “Sennar Capital of Islamic Culture 2017 Project. Preliminary results of archaeological surveys in Sennar East and Sabaloka East (Archaeology Department of Al-Neelain University concessions)”. Sudan & Nubia. The Sudan Archaeological Research Society. 20: 146–152.
- Natsoulas, Theodore (2003). “Charles Poncet's Travels to Ethiopia, 1698 to 1703”. Trong Glenn Joseph Ames; Ronald S. Love (biên tập). Distant Lands and Diverse Cultures: The French Experience in Asia, 1600–1700. Praeger. tr. 71–96. ISBN 0313308640.
- O'Fahey, R.S.; Spaulding, J.L (1974). Kingdoms of the Sudan. Studies of African History Vol. 9. London: Methuen. ISBN 0-416-77450-4.
- Ogot, B. A. biên tập (1999). “Chapter 7: The Sudan, 1500–1800”. General History of Africa. V: Africa from the Sixteenth to the Eighteenth Century. Berkeley, CA: University of California Press. tr. 89–103. ISBN 978-0-520-06700-4.
- Oliver, Roland; Atmore, Anthony (2001). Medieval Africa, 1250-1800. Cambridge University. ISBN 978-0-521-79024-6.
- Pankhurst, Richard (1997). The Ethiopian Borderlands: Essays in Regional History from Ancient Times to the End of the 18th Century. Red Sea. ISBN 0932415199.
- Peacock, A.C.S. (2012). “The Ottomans and the Funj sultanate in the sixteenth and seventeenth centuries”. Bulletin of the School of Oriental and African Studies. University of London. 75 (1): 87–111. doi:10.1017/S0041977X11000838.
- Russegger, Joseph (1844). Reise in Egypten, Nubien und Ost-Sudan. 2, Part 2. Schweizerbart'sche Verlagshandlung.
- Smidt, Wolbert (2010). “Sinnar”. Trong Siegbert Uhlig, Alessandro Bausi (biên tập). Encyclopedia Aethiopica. 4. Harrassowitz. tr. 665–667. ISBN 9783447062466.
- Spaulding, Jay (1972). “The Funj: A Reconsideration”. The Journal of African History. 13 (1): 39–53. doi:10.1017/S0021853700000256. ISSN 0021-8537. S2CID 161129633.
- Spaulding, Jay (1974). “The Fate of Alodia” (PDF). Meroitic Newsletter. 15: 12–30. ISSN 1266-1635.
- Spaulding, Jay (1985). The Heroic Age in Sennar. Red Sea. ISBN 978-1569022603.
- Spaulding, Jay (1998). “Early Kordofan”. Trong Endre Stiansen and Michael Kevane (biên tập). Kordofan Invaded: Peripheral Incorporation in Islamic Africa. Brill. tr. 46–59. ISBN 978-9004110496.
- Spaulding, Jay (2006). “Pastoralism, Slavery, Commerce, Culture and the Fate of the Nubians of Northern and Central Kordofan Under Dar Fur Rule, ca. 1750-ca. 1850”. The International Journal of African Historical Studies. Boston University African Studies Center. 39 (3). ISSN 0361-7882.
- Spaulding, Jay; Abu Salim, Muhammad Ibrahim (1989). Public Documents from Sinnar. Michigan State University. ISBN 0870132806.
- Werner, Roland (2013). Das Christentum in Nubien. Geschichte und Gestalt einer afrikanischen Kirche ["Christianity in Nubia. History and shape of an African church"] (bằng tiếng Đức). Lit. ISBN 978-3-643-12196-7.
- Zurawski, Bogdan (2012). Banganarti on the Nile. An archaeological guide (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- Zurawski, Bogdan (2014). Kings and Pilgrims. St. Raphael Church II at Banganarti, mid-eleventh to mid-eighteenth century. IKSiO. ISBN 978-83-7543-371-5.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Robinson, Arthur E. "Some Notes on the Regalia of the Fung Sultans of Sennar", Journal of the Royal African Society, 30 (1931), pp. 361–376
- Lobban, Richard A. (1983). “A Genealogical and Historical Study of the Mahas of the "Three Towns," Sudan”. The International Journal of African Historical Studies. 16 (2): 231–262. doi:10.2307/217787. JSTOR 217787. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- Pankhurst, Richard (1975). “Ethiopia's economic and cultural ties with the Sudan from the middle ages to the mid-nineteenth century”. Sudan Notes and Records. University of Khartoum. 56: 53–94. ISSN 0375-2984.
- Spaulding, Jay (2018). “The Art of the Memory and Chancery in Sinnar”. Trong William H. Worger; Charles Ambler; Nwando Achebe (biên tập). A Companion to African History. Wiley-Blackwell. tr. 421–430. ISBN 978-1-119-06350-6.