Bước tới nội dung

Thụy Sĩ

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Liên bang Thụy Sĩ
Tên bản ngữ
Quốc huy Thụy Sĩ
Quốc huy

Tiêu ngữUnus pro omnibus, omnes pro uno
(Một người vì mọi người, mọi người vì một người)

Vị trí "Thụy Sĩ" (xanh) trên thế giới
Vị trí "Thụy Sĩ" (xanh) trên thế giới
Location of Thụy Sĩ
Tổng quan
Thủ đô Bern (de facto)[Phụ chú 1][1][2]
46°57′B 7°27′Đ / 46,95°B 7,45°Đ / 46.950; 7.450
Thành phố lớn nhất Zürich
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Đức, Pháp, Ý, và Romansh
Chính trị
Chính phủLiên bang dân chủ bán trực tiếp
cộng hòa đại nghị
Viktor Rossi
Lập phápQuốc hội Liên bang
Viện Liên bang
Viện Quốc dân
Lịch sử
Độc lập
• Quốc gia hình thành
k. 1300[Phụ chú 2] (1 tháng 8 năm 1291 theo truyền thống)
24 tháng 10 năm 1648
• Khôi phục
7 tháng 8 năm 1815
• Quốc gia liên bang
12 tháng 9 năm 1848[Phụ chú 3][3]
Địa lý
Diện tích  
• Tổng cộng
41,285 km2 (hạng 132)
16 mi2
• Mặt nước (%)
4,2
Dân số 
• Ước lượng 2018
8,570,146 (hạng 99)
• Điều tra 2015
8.327.126[4]
207/km2 (hạng 63)
536,1/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng
64,649 USD[5] (hạng 9)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2018
• Tổng số
715,360 tỉ USD[5] (hạng 20)
• Bình quân đầu người
82,950 USD[5] (hạng 2)
Đơn vị tiền tệFranc Thụy Sĩ (SFr.) (CHF)
Thông tin khác
Gini? (2016)Giảm theo hướng tích cực 29,4[6]
thấp
HDI? (2022)Tăng 0,967[7]
rất cao · hạng 1
Múi giờUTCCEST (CET)
• Mùa hè (DST)
UTC+2
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+41
Mã ISO 3166CH
Tên miền Internet.ch, .swiss


Thụy Sĩ (còn được viết là Thụy Sỹ),[8][9] tên đầy đủ là Liên bang Thụy Sĩ, là một nước cộng hòa liên bang tại châu Âu. Quốc gia này gồm có 26 bang, và thành phố Bern là nơi đặt trụ sở nhà đương cục liên bang.[1][2][Phụ chú 4] Quốc gia này nằm tại TâyTrung Âu, có biên giới với Ý về phía nam, với Pháp về phía tây, với Đức về phía bắc, và với Áo cùng Liechtenstein về phía đông. Thụy Sĩ là quốc gia không giáp biển, có tổng diện tích 41.285 km² và về địa lí bao gồm dãy Alps, cao nguyên Thụy Sĩ và dãy Jura. Mặc dù dãy Alps chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ quốc gia, song khoảng 8 triệu dân Thụy Sĩ hầu hết tập trung tại khu vực cao nguyên. Các thành phố lớn nhất toàn quốc cũng nằm tại khu vực cao nguyên, trong đó có hai thành phố toàn cầu và trung tâm kinh tế là ZurichGeneva.

Mốc thành lập Cựu Liên bang Thụy Sĩ là vào thời kì Trung Cổ, là kết quả từ một loạt thắng lợi quân sự chống lại ÁoBurgandy. Thụy Sĩ được chính thức công nhận độc lập từ Thánh chế La Mã theo Hòa ước Westfalen vào năm 1648. Thụy Sĩ có lịch sử trung lập về quân sự từ thời kì Cải cách Tin Lành; quốc gia này không nằm trong tình trạng chiến tranh trên bình diện quốc tế từ năm 1815 và không gia nhập Liên Hợp Quốc cho đến năm 2002. Tuy thế, Thụy Sỹ theo đuổi chính sách đối ngoại tích cực và thường xuyên tham gia vào các tiến trình kiến tạo hòa bình trên toàn cầu.[10] Thụy Sĩ là nơi khai sinh của tổ chức Chữ thập đỏ, là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có văn phòng lớn thứ nhì của Liên Hợp Quốc. Trên cấp độ châu Âu, Thụy Sĩ là một thành viên sáng lập của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu, song không phải là thành viên của Liên minh châu ÂuKhu vực kinh tế châu Âu. Tuy nhiên, Thụy Sĩ tham gia Khu vực Schengen và Thị trường chung châu Âu thông qua các hiệp định song phương.

Thụy Sĩ nằm tại nơi giao nhau của châu Âu German và châu Âu La Tinh, có bốn khu vực ngôn ngữ và văn hóa: Đức, Pháp, ÝRomansh. Đa số dân chúng nói tiếng Đức, song bản sắc dân tộc Thụy Sỹ bắt nguồn từ một bối cảnh lịch sử chung, chia sẻ các giá trị như chủ nghĩa liên bang và dân chủ trực tiếp,[11] và chủ nghĩa tượng trưng Alpes.[12][13] Do đa dạng về ngôn ngữ, Thụy Sỹ có nhiều tên gọi bản địa: Schweiz [ˈʃvaɪts] (tiếng Đức);[Phụ chú 5] Suisse [sɥis(ə)] (tiếng Pháp); Svizzera [ˈzvittsera] (tiếng Ý); và Svizra [ˈʒviːtsrɐ] hoặc [ˈʒviːtsʁːɐ] (Romansh).[Phụ chú 6] Trên tiền xu và tem bưu chính, tên gọi trong tiếng Latinh (thường được rút ngắn thành "Helvetia") được sử dụng thay vì bốn ngôn ngữ chính thức. Tiền tệ của vùng đất chocolate - sô cô la là Franc.

Thụy Sĩ nằm trong số các quốc gia phát triển nhất trên thế giới, có của cải bình quân cao nhất (2010) và GDP PPP bình quân cao thứ 8 theo IMF (2011).[14][15] Thụy Sỹ nằm vào hàng đứng đầu toàn cầu trên một vài số liệu về thành tựu quốc gia, bao gồm tính minh bạch chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, tính cạnh tranh kinh tế và phát triển con người. ZürichGenève nằm trong số các thành phố đứng đầu thế giới về chất lượng sinh hoạt, theo Mercer năm 2009.[16]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc danh xưng trong các ngôn ngữ chính thức của Thụy Sỹ

[sửa | sửa mã nguồn]

Địa danh Schwyz được chứng thực lần đầu vào năm 972 với dạng tiếng Thượng Đức Cổ Suittes, rốt cuộc có lẽ liên quan đến suedan "đốt cháy", ám chỉ khu rừng bị đốt và phát quang để xây dựng.[17] Tên gọi này được mở rộng ra khu vực do bang này thống trị, và sau Chiến tranh Schwaben năm 1499 thì dần được sử dụng cho toàn liên bang.[18][19] Tên tiếng Đức-Thụy Sỹ của quốc gia là Schwiiz tuy đồng âm với Schwyz song được phân biệt nhờ sử dụng mạo từ xác định ('d'Schwiiz để chỉ liên bang,[20] song chỉ là Schwyz để chỉ bang và thị trấn).[21]

Tên tiếng Latinh Confoederatio Helvetica được tân từ hóa và được đưa vào dần sau khi thành lập liên bang năm 1848, gợi lại Cộng hòa Helvetii của Napoleón, xuất hiện trên tiền xu từ năm 1879, được ghi trong Cung điện liên bang vào năm 1902 và sau năm 1948 được sử dụng trong con dấu chính thức.[22] (Mã ngân hàng ISO "CHF" cho franc Thụy Sỹ bắt nguồn từ tên Latinh của liên bang). Helvetica bắt nguồn từ Helvetii, một bộ lạc sống trên cao nguyên Thụy Sỹ trước thời kỳ La Mã.

Helvetia xuất hiện với thân phận nhân cách hóa quốc gia của Liên bang Thụy Sỹ trong thế kỷ XVII theo một vở kịch vào năm 1672 của Johann Caspar Weissenbach.[23]

Nguồn gốc tên tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên tiếng Việt của Thụy Sỹ bắt nguồn từ danh xưng tiếng Hán 瑞士 Thụy Sỹ (âm đọc ghi theo âm Hán Việt). Trong tiếng Pháp, Thụy Sỹ được gọi là Suisse. Từ tiếng Pháp Suisse được phiên âm sang tiếng Quảng Đông là 瑞士 Seoi6-si6. Dịch danh chữ Hán 瑞士 sau đó được truyền nhập sang các dạng tiếng Hán khác.[24] Người nói các dạng tiếng Hán khác đó không đọc hai chữ Hán 瑞士 bằng âm đọc trong tiếng Quảng Đông mà đọc chúng bằng âm đọc tương ứng trong các dạng tiếng Hán đó. Khi tiếng Việt vay mượn tên gọi 瑞士 của tiếng Hán, hai chữ Hán 瑞士 đã được bằng âm Hán Việt của chúng.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử sơ khởi

[sửa | sửa mã nguồn]

Dấu tích cổ nhất về sự hiện diện của họ Người tại Thụy Sỹ có niên đại khoảng 150.000 năm trước.[25] Các khu định cư nông nghiệp cổ nhất được biết đến tại Thụy Sỹ nằm tại Gächlingen và có niên đại khoảng 5300 TCN.[25]

Augusta Raurica được Lucius Munatius Plancus thành lập vào năm 44 TCN, là khu định cư La Mã đầu tiên ven sông Rhine và nay nằm trong số các di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất tại Thụy Sỹ.[26]

Các "bộ lạc văn hóa" sớm nhất được biết đến là thành viên của văn hóa HallstattLa Tène. Văn hóa La Tène phát triển và thịnh vượng vào cuối thời đại đồ sắt từ khoảng năm 450 TCN,[25] có thể là dưới một số ảnh hưởng từ văn minh Hy Lạpvăn minh Etrusca (tại Ý ngày nay). Helvetii là một trong số các nhóm bộ lạc quan trọng nhất tại khu vực nay là Thụy Sỹ. Do thường xuyên bị các bộ lạc German quấy nhiễu, đến năm 58 TCN người Helvetii quyết định từ bỏ cao nguyên Thụy Sỹ và di cư đến miền tây Gallia, song quân đội của Julius Caesar truy kích và đánh bại họ trong trận Bibracte tại miền đông của Pháp ngày nay, buộc bộ lạc này chuyển về quê hương ban đầu của họ.[25] Năm 15 TCN, Hoàng đế La Mã tương lai Tiberius cùng em trai là Drusus chinh phục dãy Alpes, hợp nhất khu vực này vào Đế quốc La Mã. Khu vực do người Helvetii chiếm giữ đầu tiên trở thành bộ phận của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, sau đó thuộc tỉnh Thượng Germania của đế quốc, trong khi phần miền đông của Thụy Sỹ ngày nay được hợp nhất vào tỉnh Raetia của đế quốc.

Trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai, cư dân sống trên cao nguyên Thụy Sỹ được hưởng một thời kỳ thịnh vượng. Một số đô thị như Aventicum, Iulia Equestris và Augusta Raurica đạt đến quy mô đáng kể, có hàng trăm bất động sản nông nghiệp (Villae rusticae) được phát hiện tại vùng nông thôn. Khoảng năm 260, khu vực Agri Decumates phía bắc sông Rhine thất thủ khiến Thụy Sỹ lúc này trở thành vùng biên giới của Đế quốc La Mã. Các vụ tập kích lặp đi lặp lại của các bộ lạc Alamanni khiến các đô thị và kinh tế Lã Mã bị tàn phá, buộc cư dân phải tìm nơi trú ẩn gần các công sự La Mã. Đế quốc cho xây dựng một tuyến phòng thủ khác tại biên giới phía bắc (được gọi là Donau-Iller-Rhine-Limes), song đến cuối thế kỷ IV thì áp lực gia tăng từ người German buộc người La Mã từ bỏ quan niệm phòng thủ theo tuyến, và cao nguyên Thụy Sỹ cuối cùng mở ra cho các khu định cư của người German.

Đến Sơ kỳ Trung Cổ, từ cuối thế kỷ IV, miền tây của Thụy Sỹ ngày nay là bộ phận lãnh thổ của Vương quốc Burgundia. Người Alemanni định cư tại Cao nguyên Thụy Sỹ vào thế kỷ V và tại các thung lũng thuộc dãy Alpes trong thế kỷ VIII, hình thành Alemannia. Lãnh thổ Thụy Sỹ ngày nay vào lúc đó bị phân chia giữa hai vương quốc này.[25] Trong thế kỷ VI, sau chiến thắng của Clovis I trước người Alemanni tại Tolbiac vào năm 504 và rồi người Frank thống trị người Bourgogne, toàn thể khu vực trở thành bộ phận của Đế quốc Frank.[27][28]

Trong phần còn lại của thế kỷ VI, trong thế kỷ VII và VIII khu vực Thụy Sỹ tiếp tục nắm dưới quyền bá chủ của Frank (các triều đại MerovingCaroling). Tuy nhiên, sau khi bành trướng dưới thời Charlemagne, Đế quốc Frank bị phân chia theo Hiệp ước Verdun vào năm 843.[25] Khu vực nay là Thụy Sỹ bị phân chia giữa Trung FrankĐông Frank cho đến khi thống nhất dưới quyền Thánh chế La Mã (một tập hợp các lãnh địa) vào khoảng năm 1000.[25]

Đến năm 1200, cao nguyên Thụy Sỹ gồm các lãnh địa của các gia tộc Savoy, Zähringer, Habsburg và Kyburg.[25] Một số khu vực (Uri, Schwyz, Unterwalden sau gọi là Waldstätten) do thánh chế trực tiếp quản lý. Do không có hậu duệ theo dòng nam giới vào năm 1263, Triều đại Kyburg sụp đổ vào năm 1264; sau đó Gia tộc Habsburg dưới quyền Quốc vương Rudolph I (Hoàng đế Thánh chế vào năm 1273) đưa ra yêu sách đối với đất của nhà Kyburg và sáp nhập chúng để bành trướng lãnh thổ của họ đến miền đông cao nguyên Thụy Sỹ.[27]

Liên bang Thụy Sỹ Cũ

[sửa | sửa mã nguồn]
Hiến chương Liên bang 1291
Liên bang Thụy Sỹ Cũ từ năm 1291 (lục đậm) đến thế kỷ XVI (lục nhạt).

Liên bang Thụy Sỹ Cũ là một liên minh giữa các cộng đồng trong thung lũng tại miền trung dãy Alpes. Liên minh tạo thuận tiện cho quản lý các lợi ích chung và đảm bảo hòa bình trên các tuyến mậu dịch miền núi quan trọng. Hiến chương Liên bang năm 1291 được đồng thuận giữa các công xã nông thôn Uri, SchwyzUnterwalden, được cho là văn kiện hình thành liên bang, mặc dù các liên minh tương tự có vẻ tồn tại từ nhiều thập niên trước đó.[29][30]

Đến năm 1353, liên minh tiếp nhận thêm các bang Glarus, Zug và các thành bang Lucerne, ZürichBern để hình thành "Liên bang Cũ" gồm tám bang và tồn tại cho đến cuối thế kỷ XV. Việc mở rộng này làm gia tăng quyền lực và thịnh vượng cho liên bang.[30] Đến năm 1460, liên bang kiểm soát hầu hết lãnh thổ nằm về phía nam và phía tây của Sông Rhine cho đến dãy Alpes và dãy Jura, đặc biệt là sau các chiến thắng trước Vương triều Habsburg tại Áo, trước Charles Dũng cảm của Bourgogne trong thập niên 1470, và thành công của các lính đánh thuê Thụy Sỹ. Chiến thắng của Thụy Sỹ trong Chiến tranh Schwaben trước Liên minh Schwaben dưới quyền Hoàng đế Thánh chế La Mã Maximilian I vào năm 1499 giúp đem lại độc lập thực tế cho Thụy Sỹ trong Thánh chế La Mã.[30]

Liên bang Thụy Sỹ Cũ có được danh tiếng bất khả chiến bại trong các cuộc chiến ban đầu này, song việc mở rộng liên bang gặp phải một bước lùi vào năm 1515 khi Thụy Sỹ thất bại trong trận Marignano trước Pháp và Venezia. Chiến tranh kết thúc điều được gọi là kỷ "anh hùng" trong lịch sử Thụy Sỹ.[30] Cải cách Tin Lành dưới quyền lãnh đạo của Zwingli thành công tại một số bang, song dẫn đến xung đột tôn giáo giữa các bang vào năm 1529 và năm 1531. Đến năm 1648, theo Hòa ước Westfalen, các quốc gia châu Âu công nhận Thụy Sỹ độc lập từ Thánh chế La Mã và tính chất trung lập của nước này.[27][28]

Trong thời kỳ cận đại của lịch sử Thụy Sỹ, chủ nghĩa chuyên chế của các gia đình quý tộc phát triển, kết hợp với một cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Chiến tranh Ba mươi Năm dẫn đến nông dân khởi nghĩa vào năm 1653. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh này, xung đột giữa các bang Công giáo La Mã và Tin Lành vẫn dai dẳng, bùng phát thành bạo lực hơn nữa trong Chiến tranh Villmergen lần thứ nhất vào năm 1656, và Chiến tranh Toggenburg (Chiến tranh Villmergen lần thứ hai) vào năm 1712.[30]

Thời đại Napoléon

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1798, chính phủ Cách mạng Pháp xâm chiếm Thụy Sỹ và áp đặt một hiến pháp thống nhất mới.[30] Đây là hành động nhằm trung ương tập quyền hóa chính phủ quốc gia, bãi bỏ các bang trên thực tế. Ngoài ra, Mülhausen gia nhập Pháp còn thung lũng Valtellina gia nhập Cộng hòa Cisalpina (nay thuộc Ý). Chế độ mới mang tên Cộng hòa Helvetii, song rất không được lòng dân. Nó do quân đội ngoại quốc xâm lược áp đặt và phá hoại truyền thống từ nhiều thế kỷ, biến Thụy Sỹ thành một quốc gia vệ tinh của Pháp.

Khi chiến tranh bùng phát giữa Pháp với các kình địch của họ, quân của Nga và Áo xâm chiếm Thụy Sỹ. Người Thụy Sỹ từ chối chiến đấu bên phía Pháp nhân danh Cộng hòa Helvetii. Năm 1803, Napoléon tổ chức một hội nghị gồm các chính trị gia hàng đầu Thụy Sỹ từ cả hai bên tại Paris. Kết quả là Đạo luật Điều giải, theo đó khôi phục phần lớn quyền tự trị của Thụy Sỹ và đưa lại một Liên bang gồm 19 bang.[30] Từ đó về sau, chính trường Thụy Sỹ phần lớn liên quan đến cân bằng giữa truyền thống tự trị của các bang và nhu cầu về một chính phủ trung ương.

Năm 1815, Đại hội Wien tái lập hoàn toàn nền độc lập của Thụy Sỹ và các cường quốc châu Âu đồng ý công nhận vĩnh viễn tính chất trung lập của Thụy Sỹ.[27][28][30] Hiệp định cho phép Thụy Sỹ gia tăng lãnh thổ của mình, với việc tiếp nhận các bang Valais, NeuchâtelGenève. Biên giới Thụy Sỹ không thay đổi kể từ đó, ngoại trừ một số điều chỉnh nhỏ.[31]

Quốc gia liên bang

[sửa | sửa mã nguồn]
Cung điện Liên bang đầu tiên, tại Bern (1857). Một trong ba bang chủ trì Tagsatzung (hội đồng lập pháp và hành pháp cũ), Bern được chọn làm thủ đô liên bang vào năm 1848, chủ yếu là do gần gũi với khu vực nói tiếng Pháp.[1]

Khôi phục quyền lực cho giai cấp quý tộc chỉ là tạm thời. Sau một giai đoạn bất ổn với các xung đột bạo lực liên tiếp, nội chiến (Sonderbundskrieg) bùng phát vào năm 1847 khi một số bang Công giáo La Mã nỗ lực lập một liên minh riêng biệt (Sonderbund).[30] Chiến tranh kéo dài trong chưa tới một tháng, có ít hơn 100 người thiệt mạng. Mặc dù có quy mô nhỏ so với các náo loạn và chiến tranh khác tại châu Âu trong thế kỷ XIX, tuy thế cuộc nội chiến có tác động lớn đến tâm lý và xã hội Thụy Sỹ. Chiến tranh thuyết phục hầu hết người Thụy Sỹ về tính cần thiết của việc đoàn kết và sức mạnh trước các láng giềng. Người Thụy Sỹ từ tất cả tầng lớp xã hội, theo Công giáo La Mã hay Tin Lành, từ khuynh hướng tự do đến bảo thủ, nhận thấy rằng các bang sẽ có lợi hơn nếu các lợi ích kinh tế và tôn giáo của họ được hợp nhất.

Do đó, trong khi phần còn lại của châu Âu xảy ra các cuộc khởi nghĩa cách mạng, thì người Thụy Sỹ lập ra một hiến pháp đề ra bố cục liên bang, phần lớn được lấy cảm hứng từ Hiến pháp Mỹ . Hiến pháp này tạo ra một nhà đương cục trung ương, trong khi để lại cho các bang quyền tự quản về các vấn đề địa phương. Quốc hội được chia thành một thượng viện (Hội đồng Các bang, mỗi bang có hai đại biểu) và một hạ viện (Hội đồng Quốc gia, có đại biểu được bầu từ toàn quốc). Bắt buộc phải trưng cầu dân ý để sửa đổi bất kỳ nội dung nào trong hiến pháp này.[28]

Đường hầm xe lửa Gotthard được khánh thành vào năm 1882, giữ kỷ lục thế giới vào đương thời về chiều dài.[32]

Một hệ thống cân và đo lường duy nhất được định ra và đến năm 1850 franc Thụy Sỹ trở thành đơn vị tiền tệ duy nhất của quốc gia. Điều 11 của hiến pháp ngăn cấm đưa binh sĩ đi phục vụ tại ngoại quốc. Một điều khoản quan trọng trong hiến pháp là nó có thể được soạn lại hoàn toàn nếu được cho là cần thiết, do đó cho phép việc phát triển toàn thể thay vì sửa đổi một phần tại một thời điểm.[33] Điều này nhanh chóng chứng minh tính cần thiết khi dân số gia tăng và cách mạng công nghiệp tiếp sau đó dẫn đến các yêu cầu thay đổi hiến pháp cho phù hợp. Một dự thảo ban đầu bị dân chúng bác bỏ vào năm 1872 song bản sửa đổi được thông qua vào năm 1874.[30] Nó xác định trưng cầu dân ý không cưỡng bách đối với pháp luật tại cấp độ liên bang. Nó cũng xác định liên bang chịu trách nhiệm về các sự vụ phòng thủ, mậu dịch và lập pháp.

Năm 1891, hiến pháp được điều chỉnh với các yếu tố dân chủ trực tiếp mạnh mẽ khác thường, điều này vẫn còn là độc nhất thế giới cho đến ngày nay.[30]

Lịch sử hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]
Tướng Ulrich Wille là tổng tư lệnh của Lục quân Thụy Sỹ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất

Thụy Sỹ không bị xâm chiếm trong hai đại chiến thế giới. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Thụy Sỹ là nơi Vladimir Lenin sống lưu vong cho đến năm 1917.[34] Tính trung lập của Thụy Sỹ bị nghi ngờ nghiêm trọng do một chính trị gia nước này tên là Robert Grimm thương lượng hòa bình giữa Đức và Nga vào năm 1917. Năm 1920, Thụy Sỹ gia nhập Hội Quốc Liên có trụ sở tại Genève, với điều kiện là họ được miễn bất kỳ yêu cầu quân sự nào.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Đức soạn thảo các kế hoạch xâm lược chi tiết đối với Thụy Sỹ,[35] song nước này chưa từng bị tấn công.[30] Thụy Sỹ có thể duy trì độc lập nhờ kết hợp răn đe quân sự, nhượng bộ với Đức, và may mắn do các sự kiện lớn hơn trong chiến tranh khiến Đức trì hoãn xâm lược.[28][36] Chiến lược về quân sự của Thụy Sỹ thay đổi từ phòng thủ chiến lược tại biên giới để bảo vệ khu trung tâm kinh tế, sang chiến lược mang tên Reduit nhằm tiêu hao địch lâu dài có tổ chức và triệt thoái đến các vị trí cao kiên cố, có đủ dự trữ trên dãy Alpes. Thụy Sỹ là một căn cứ quan trọng về hoạt động tình báo đối với cả hai phe xung đột và thường làm trung gian giao thiệp giữa lực lượng Phe TrụcĐồng Minh.[36]

Trong suốt cuộc chiến, Thụy Sỹ giam giữ trên 300.000 người tị nạn[37]Chữ thập đỏ quốc tế có trụ sở tại Genève giữ vai trò quan trọng trong xung đột. Các chính sách nhập cư và tị nạn nghiêm ngặt cũng như quan hệ tài chính với Đức Quốc xã gây ra tranh luận, song chúng không kéo dài đến cuối thế kỷ XX.[38]

Sau chiến tranh, chính phủ Thụy Sỹ xuất khẩu tín dụng thông qua quỹ từ thiện mang tên Schweizerspende và cũng đóng góp cho Kế hoạch Marshall nhằm giúp châu Âu phục hồi, các nỗ lực này cuối cùng cũng làm lợi cho kinh tế Thụy Sỹ.[39]

Trong Chiến tranh Lạnh, nhà đương cục Thụy Sỹ từng xem xét chế tạo một bom hạt nhân.[40] Các nhà vật lý học hạt nhân hàng đầu tại Viện Công nghệ Liên bang Zürich biến điều này trở thành khả thi. Tuy nhiên, các vấn đề tài chính và ngân sách quốc phòng ngăn cản cung cấp lượng kinh phí đáng kể, và Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 được cho là một lựa chọn có giá trị. Toàn bộ các kế hoạch còn lại về phát triển vũ khí hạt nhân bị dừng lại vào năm 1988.[41]

Năm 2003, với việc trao cho Đảng Nhân dân Thụy Sỹ ghế thứ nhì trong nội các cầm quyền, Quốc hội thay đổi liên minh chi phối chính trường Thụy Sỹ kể từ năm 1959.

Thụy Sỹ là nước cộng hòa phương Tây cuối cùng trao quyền tuyển cử cho nữ giới. Một số bang của Thụy Sỹ phê chuẩn quyền này vào năm 1959, còn ở cấp liên bang là vào năm 1971.[30][42] Sau khi giành được quyền đi bầu ở cấp độ liên bang, tầm quan trọng chính trị của nữ giới nhanh chóng nổi lên, nữ giới đầu tiên trong Hội đồng Liên bang là Elisabeth Kopp, có nhiệm kỳ 1984–1989,[30] và nữ tổng thống đầu tiên là Ruth Dreifuss vào năm 1999.

Thụy Sỹ gia nhập Ủy hội châu Âu vào năm 1963.[28] Năm 1979, một số khu vực của bang Bern giành được độc lập và hình thành bang Jura. Ngày 18 tháng 4 năm 1989, dân chúng Thụy Sỹ và các bang bỏ phiếu tán thành thay đổi hoàn toàn hiến pháp liên bang.[30]

Năm 2002, Thụy Sỹ trở thành một thành viên đầy đủ của Liên Hợp Quốc. Thụy Sỹ là một thành viên sáng lập của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu, song không phải là thành viên của Khu vực kinh tế châu Âu. Đơn xin làm thành viên Liên minh châu Âu được gửi đi vào tháng 5 năm 1992, song không có tiến bộ từ khi dân chúng bác bỏ Khu vực Kinh tế châu Âu vào tháng 12 năm 1992.[30] Từ đó có một số cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề Liên minh châu Âu; do phản ứng khác nhau từ dân chúng nên đơn xin làm thành viên bị đóng băng. Tuy thế, pháp luật Thụy Sỹ dần được điều chỉnh để phù hợp với pháp luật Liên minh châu Âu, và chính phủ ký kết một số thỏa thuận song phương với tổ chức này. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, cử tri Thụy Sỹ chấp thuận tham gia Hiệp ước Schengen.[28]

Địa lí

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ địa hình Thụy Sĩ
Các kiểu phân loại khí hậu Köppen của Thụy Sĩ

Thụy Sĩ trải dài qua sườn phía bắc và phía nam của Dãy Alpes tại Tây-Trung Âu, có sự đa dạng lớn về cảnh quan và khí hậu trong một diện tích hạn chế là 41.285 kilômét vuông (15.940 dặm vuông Anh).[43] Dân số toàn quốc khoảng 8 triệu, khiến mật độ dân số bình quân là khoảng 195 người/km².[43][44] Nửa phía nam có địa hình núi non hơn, và có dân cư thưa thớt hơn rất nhiều so với nửa phía bắc.[43] Bang lớn nhất là Graubünden nằm hoàn toàn trên dãy Alpes, có mật độ dân số là 27 người/km².[45]

Thụy Sĩ nằm giữa các vĩ tuyến 45° và 48° Bắc, và các kinh tuyến 5° và 11° Đ. Quốc gia này gồm có ba khu vực địa hình cơ bản: Dãy Alpes Thụy Sĩ về phía nam, cao nguyên Thụy Sĩ hay cao nguyên Trung tâm, và dãy Jura về phía tây. Dãy Alpes là một dãy núi cao chạy dọc trung-nam của quốc gia, chiếm khoảng 60% diện tích toàn quốc. Đa số dân chúng Thụy Sĩ cư trú tại cao nguyên Thụy Sĩ. Trong số các thung lũng cao của dãy Alpes Thụy Sĩ, có nhiều sông băng với tổng diện tích là 1.063 kilômét vuông (410 dặm vuông Anh). Chúng là đầu nguồn của một số sông lớn, chẳng hạn như Rhine, Inn, TicinoRhône, chúng chảy theo bốn hướng cơ bản ra toàn châu Âu. Mạng lưới thủy văn học bao gồm một số thực thể nước ngọt vào hàng lớn nhất tại Trung-Tây Âu, như hồ Genève, Bodenseehồ Maggiore. Thụy Sỹ có trên 1500 hồ và chứa 6% tài nguyên nước ngọt của châu Âu. Các hồ và sông băng chiếm khoảng 6% diện tích quốc gia. Sông Rhône chảy ra Địa Trung Hải tại vùng Camargue của Pháp còn sông Rhine chảy ra biển Bắc tại Rotterdam thuộc Hà Lan, cách nhau khoảng 1.000 kilômét (620 dặm), song dòng chảy của chúng chỉ cách nhau khoảng 22 kilômét (14 dặm) trên dãy Alpes Thụy Sĩ.[43][46]

Núi Matterhorn là một biểu tượng của dãy Alpes Thụy Sĩ
Cảnh quan hồ Lucerne/Vierwaldstätter nhìn từ núi Pilatus

Thụy Sĩ có 48 núi cao từ 4.000 mét (13.000 ft) trở lên so với mực nước biển.[43] Monte Rosa là núi cao nhất với 4.634 m (15.203 ft), song núi Matterhorn với độ cao (4.478 m hay 14.692 ft) thường được cho là nổi tiếng nhất. Cả hai đều nằm trên dãy Alpes Pennines thuộc bang Valais, trên biên giới với Ý. Đoạn dãy Alpes Bern nằm ở trên thung lũng Lauterbrunnen gồm có 72 thác nước, được biết nhiều với các núi Jungfrau (4.158 m hay 13.642 ft) EigerMönch, cùng nhiều thung lũng đẹp như họa trong khu vực. Tại phía đông nam có thung lũng Engadin trải dài, gồm khu vực St. Moritz của bang Graubünden, cũng nổi tiếng; đỉnh cao nhất tại dãy Alpes BerninaPiz Bernina (4.049 m hay 13.284 ft).[43]

Phần miền bắc đông dân hơn của Thụy Sĩ chiếm khoảng 30% tổng diện tích, được gọi là cao nguyên Thụy Sĩ. Nó có cảnh quan rộng mở và đồi núi, một phần là rừng, một phần là thảo nguyên rộng thường dùng để chăn thả gia súc, hoặc để trồng rau và quả, song vẫn có nhiều đồi. Tại đó có các hồ nước lớn và các thành phố lớn nhất Thụy Sĩ.[43]

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Khí hậu Thụy Sĩ về tổng thể là ôn đới, song có thể khác biệt lớn giữa các địa phương,[47] từ tình trạng băng giá trên các đỉnh núi, đến thường êm dịu tương tự khí hậu Địa Trung Hải tại mũi phía nam của Thụy Sĩ. Có một số khu vực thung lũng nằm tại phần phía nam của Thụy Sĩ, tại đó có một số cây cọ chịu lạnh. Mùa hè có xu hướng ấm và ẩm cùng các cơn mưa định kỳ, thích hợp cho đồng cỏ và gia súc. Mùa đông trên các dãy núi có ít ẩm hơn, có thể ổn định trong một thời gian dài nhiều tuần, trong khi tại các vùng thấp có xu hướng nghịch ôn trong các giai đoạn này, do đó không có Mặt trời trong nhiều tuần.

Một hiện tượng thời tiết gọi là phơn có thể xảy ra tại bất kỳ lúc nào trong năm và mang đặc điểm là gió ấm bất ngờ, khiến không khí có độ ẩm tương đối rất thấp tại phía bắc của Alpes trong các giai đoạn mưa tại sườn nam của Alpes. Hiện tượng này xảy ra theo cả hai hướng qua Dãy Alpes, song phổ biến hơn là gió thổi từ miền nam. Tình trạng khô hạn nhất tồn tại trong toàn bộ các thung lũng núi cao nội địa, chúng nhận được mưa ít hơn do các đám mây mất đi phần lớn lượng ẩm khi vượt qua các dãy núi trước khi tiếp cận đến chúng. Các khu vực núi cao lớn như Graubünden vẫn khô hạn hơn các khu vực trước núi cao và như tại thung lũng chính của Valais các loại nho được trồng để làm rượu vang.[48]

Tình trạng ẩm nhất tồn tại trên vùng núi Alpes cao và tại bang Ticino, tại đó có nhiều ánh nắng gây các cơn mưa lớn. Giáng thủy có xu hướng trải vừa phải quanh năm với đỉnh điểm vào mùa hè. Mùa thu là mùa khô hạn nhất, mùa đông có ít giáng thủy hơn mùa hè, song mô hình thời tiết tại Thụy Sĩ không phải là một hệ thống ổn định và có thể biến thiên từ năm này sang năm khác.

Khí hậu tương phản giữa khu vực băng giá nhất tại miền tây Á-Âu (Sông băng Aletsch),[49] Dãy Jura có thời tiết ôn đới lạnh (Vallée de Joux), bang miền nam Ticino (hồ Lugano), và bang miền tây Vaud có các ruộng nho bậc thang (hồ Genève)

Môi trường

[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ sinh thái của Thụy Sĩ có thể đặc biệt dễ tổn thương, do nhiều thung lũng nhạy cảm bị các núi cao chia cắt nên thường tạo thành hệ sinh thái duy nhất. Các khu vực núi non cũng dễ bị tổn thương, có đa dạng về thực vật không tìm thấy tại các độ cao khác, và trải qua một số áp lực từ du khách và gia súc. Các điều kiện khí hậu, địa chất và địa hình của khu vực núi cao tạo nên một hệ sinh thái rất mong manh, đặc biệt nhạy cảm với biến đổi khí hậu.[47][50] Tuy thế, theo Chỉ số Thành tựu Môi trường 2014, Thụy Sỹ xếp thứ nhất trong số 132 quốc gia về bảo vệ môi trường, do có điểm số cao về y tế công cộng môi trường, phụ thuộc nhiều vào nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện và địa nhiệt), và kiểm soát phát thải khí nhà kính.[51]

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiến pháp Liên bang được thông qua vào năm 1848 là căn cứ pháp lý của nhà nước liên bang hiện đại. Nó nằm trong số các hiến pháp lâu năm nhất của thế giới.[52] Một hiến pháp mới được phê chuẩn vào năm 1999, song không tiến hành các biến đổi đáng kể về cấu trúc liên bang. Nó phác thảo các quyền lợi cơ bản và chính trị của các cá nhân và tham gia của công dân vào công vụ, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang, và xác định thẩm quyền và quyền hạn của liên bang. Có ba cơ cấu quản lý chính tại cấp độ liên bang:[53] Quốc hội Liên bang (lập pháp), Hội đồng Liên bang (hành pháp) và Tòa án Liên bang (tư pháp).

Cung điện Liên bang là trụ sở của Nghị viện Liên bang và Hội đồng Liên bang.

Nghị viện Thụy Sỹ gồm có hai viện: Hội đồng Các bang gồm có 46 đại biểu (mỗi bang hai đại biểu và mỗi bán bang có 1 đại biểu), họ được bầu theo hệ thống riêng do mỗi bang xác định, và Hội đồng Quốc gia gồm 200 thành viên được bầu theo một hệ thống đại diện tỷ lệ, tùy theo dân số của mỗi bang. Thành viên của hai viện phục vụ trong bốn năm và chỉ phục vụ bán thời gian (gọi là "Milizsystem" hay cơ quan tư pháp công dân).[54] Khi cả hai viện họp chung, họ được gọi là Nghị hội Liên bang. Thông qua trưng cầu dân ý, công dân có thể thách thức bất kỳ luật nào do nghị viện thông qua, và thông qua xướng nghị có thể đưa các sửa đổi vào hiến pháp liên bang, do đó biến Thụy Sỹ thành một nền dân chủ trực tiếp.[52]

Hội đồng Liên bang gồm có chính phủ liên bang, chỉ đạo chính quyền liên bang và đóng vai trò là cơ quan cao nhất của quốc gia. Đây là một cơ cấu hiệp nghị gồm bảy thành viên, được Nghị hội Liên bang bầu ra theo nhiệm kỳ ủy thác bốn năm, Nghị hội Liên bang cũng thực thi giám sát Hội đồng. Tổng thống Liên bang được Nghị hội Liên bang bầu ra từ bảy thành viên này, theo truyền thống chức vụ này được luân phiên và có nhiệm kỳ một năm; Tổng thống chủ trì chính phủ và đảm nhiệm các chức năng tượng trưng. Tuy nhiên, tổng thống là một người đứng đầu bình đẳng, không có thêm quyền lực, và duy trì là người đứng đầu một cơ quan trong chính quyền.

Chính phủ Thụy Sỹ là một liên minh của bốn chính đảng lớn kể từ năm 1959, mỗi đảng có một số lượng ghế trong nghị viện, chúng phản ánh đại thể tỷ lệ cử tri và đại diện của họ trong nghị viện liên bang. Phân bổ kiểu cũ là 2 thành viên CVP/PDC, 2 thành viên SPS/PSS, 2 thành viên FDP/PRD và 1 thành viên SVP/UDC tồn tại từ năm 1959 đến năm 2003 và được gọi là "công thức ma thuật". Sau bầu cử Hội đồng Liên bang năm 2015, bảy ghế trong hội đồng được phân bổ như sau:

1 ghế của Đảng Nhân dân Dân chủ Cơ Đốc giáo (CVP/PDC),
2 ghế của Đảng Dân chủ Tự do (FDP/PRD),
2 ghế của Đảng Dân chủ Xã hội (SPS/PSS),
2 ghế của Đảng Nhân dân Thụy Sỹ (SVP/UDC).

Chức năng của Tòa án Tối cao Liên bang là phân xử kháng án phán quyết của các tòa án cấp bang và liên bang. Các thẩm phán được Nghị hội Liên bang bầu ra, có nhiệm kỳ sáu năm.[55]

Dân chủ trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Landsgemeinde (bỏ phiếu công khai) là một hình thức cũ của dân chủ trực tiếp. Nó hiện vẫn được thực hiện tại hai bang.

Dân chủ trực tiếpchủ nghĩa liên bang là các điểm nổi bật của hệ thống chính trị Thụy Sỹ.[56] Công dân Thụy Sỹ là đối tượng của ba quyền lực tư pháp: tại cấp khu tự quản, bang và liên bang. Hiến pháp 1848/1999 xác định một hệ thống dân chủ trực tiếp (thỉnh thoảng gọi là bán trực tiếp hay dân chủ trực tiếp đại diện). Các công cụ của hệ thống này tại cấp độ liên bang, được gọi là quyền dân chúng (tiếng Đức: Volksrechte, tiếng Pháp: droits populaires, tiếng Ý: Diritti popolari),[57] bao gồm quyền đệ trình một "xướng nghị liên bang" và một "trưng cầu dân ý", cả hai đều có thể lật đổ các quyết định của nghị viện.[58]

Bằng cách yêu cầu một cuộc "trưng cầu dân ý" liên bang, một nhóm công dân có thể thách thức một luật do nghị viện thông qua nếu họ thu thập được 50.000 chữ ký chống lại luật trong vòng 100 ngày. Nếu vậy, một cuộc bỏ phiếu toàn quốc được lên kế hoạch để các cử tri quyết định theo thể thức đa số giản đơn về việc chấp thuận hay bác bỏ luật. Tập hợp gồm tám bang bất kỳ cũng có thể yêu cầu trưng cầu hiến pháp về một luật của liên bang.

Tương tự, "xướng nghị hiến pháp" liên bang cho phép công dân đưa một sửa đổi hiến pháp ra bỏ phiếu toàn dân, nếu như trong vòng 18 tháng có 100.000 cử tri ký tên vào sửa đổi được đề xuất.[note 1] Hội đồng Liên bang và Nghị hội Liên bang có thể bổ sung sửa đổi được đề xuất bằng một phản đề án, và sau đó cử tri cần phải cho biết họ ưu tiên gì hơn trong trường hợp hai đề xuất được chấp thuận. Do đó, các sửa đổi hiến pháp bất kể tiến hành dựa theo xướng nghị hoặc tại nghị viện, cần phải được chấp thuận bởi đa số kép theo phiếu phổ thông quốc gia và phiếu phổ thông cấp bang.[note 2][56]

Thủ đô

[sửa | sửa mã nguồn]

Luật Thụy Sỹ không định rõ một thủ đô chính thức, song nghị viện và chính phủ liên bang đặt tại Bern, trong khi các tòa án liên bang nằm tại các thành phố khác.[59]

Đơn vị hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên bang Thụy Sỹ gồm có 20 bang và 6 bán bang:[52][60]

Bang Thủ phủ Bang Thủ phủ
Aargau Aarau *Nidwalden Stans
*Appenzell Ausserrhoden Herisau *Obwalden Sarnen
*Appenzell Innerrhoden Appenzell Schaffhausen Schaffhausen
*Basel-Landschaft Liestal Schwyz Schwyz
*Basel-Stadt Basel Solothurn Solothurn
Bern Bern St. Gallen St. Gallen
Fribourg Fribourg Thurgau Frauenfeld
Genève Genève Ticino Bellinzona
Glarus Glarus Uri Altdorf
Graubünden Chur Valais Sion
Jura Delémont Vaud Lausanne
Luzern Luzern Zug Zug
Neuchâtel Neuchâtel Zürich Zürich

*Các bang được xem là bán bang và do đó chỉ có một ủy viên (thay vì hai) trong Hội đồng Các bang.

Các bang có một địa vị hiến pháp vĩnh viễn, và so với tình hình tại các quốc gia khác thì chúng có mức độ độc lập cao. Theo Hiến pháp Liên bang, toàn bộ 26 bang đều bình đẳng về địa vị. Mỗi bang có hiến pháp riêng, cùng nghị viện, chính phủ và tòa án riêng.[60] Tuy nhiên, có khác biệt đáng kể giữa các bang, quan trọng nhất là về dân số và diện tích. Dân số các bang dao động từ 15.000 (Appenzell Innerrhoden) đến 1.253.500 (Zürich), và diện tích dao động từ 37 km2 (14 dặm vuông Anh) (Basel-Stadt) đến 7.105 km2 (2.743 dặm vuông Anh) (Graubünden). Các bang gồm có tổng cộng 2.485 khu tự quản. Tại Thụy Sỹ có hai vùng đất lọt vào: Büsingen thuộc về Đức, Campione d'Italia thuộc về Ý.[61]

Ngoại giao và tổ chức quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Sỹ có truyền thống tránh các liên minh có thể yêu cầu quân sự, chính trị và hành động kinh tế trực tiếp, và là nước trung lập kể từ khi kết thúc mở rộng vào năm 1515. Chính sách trung lập của họ được quốc tế công nhận trong Đại hội Wien năm 1815.[62][63] Phải đến năm 2002 Thụy Sỹ mới trở thành một thành viên đầy đủ của Liên Hợp Quốc[62] và là quốc gia đầu tiên gia nhập tổ chức này theo trưng cầu dân ý. Thụy Sỹ duy trì quan hệ ngoại giao với hầu như toàn bộ các quốc gia và theo truyền thống đóng vai trò là một bên trung gian giữa các quốc gia khác.[62] Thụy Sỹ không phải là thành viên của Liên minh châu Âu; người Thụy Sỹ kiên trì bác bỏ tư cách thành viên của tổ chức này kể từ đầu thập niên 1990.[62] Tuy nhiên, Thụy Sỹ tham gia Khu vực Schengen.[64]

Đảo nghịch đơn sắc quốc kỳ Thụy Sỹ trở thành biểu trưng của Phong trào Chữ thập đỏ,[42] được Henri Dunant thành lập vào năm 1863.[65]

Một lượng lớn các tổ chức quốc tế đặt trụ sở của họ tại Thụy Sỹ, một phần là do chính sách trung lập của nước này. Genève là nơi khai sinh của Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏCông ước Genève, và từ năm 2006 là nơi đặt trụ sở Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Mặc dù Thụy Sỹ là một trong số các nước mới nhất gia nhập Liên Hợp Quốc, song Cung các Quốc gia tại Genève là trung tâm lớn thứ nhì của Liên Hợp Quốc sau trụ sở tại New York, và Thụy Sỹ là một thành viên sáng lập và là nơi đặt trụ sở của Hội Quốc Liên trước đây.

Ngoài trụ sở của Liên Hợp Quốc, Thụy Sỹ còn là trụ sở của nhiều cơ quan Liên Hợp Quốc, như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) và khoảng 200 tổ chức quốc tế khác, trong đó có Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO).[62] Các hội nghị thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos có sự tham gia của các lãnh đạo doanh nghiệp và chính trị quốc tế nhằm thảo luận các vấn đề quan trọng của thế giới, trong đó có y tế và môi trường. Ngoài ra, trụ sở của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đặt tại Basel từ năm 1930.

Hơn nữa, nhiều liên đoàn và tổ chức thể thao đặt tại khắp Thụy Sỹ, như Liên đoàn bóng rổ quốc tế tại Genève, Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tại Nyon, Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) và Liên đoàn khúc côn cầu trên băng quốc tế đặt tại Zürich, Liên đoàn Xe đạp Quốc tế tại Aigle, và Ủy ban Olympic Quốc tế tại Lausanne.[66]

Quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
Một chiếc F/A-18 Hornet của Không quân Thụy Sỹ

Lực lượng vũ trang Thụy Sỹ gồm có Lục quân và Không quân, gồm chủ yếu là các binh sĩ nghĩa vụ từ các nam công dân tuổi từ 20 đến 34 (trong trường hợp đặc biệt lên đến 50). Do là một quốc gia nội lục, Thụy Sỹ không có hải quân song trên các hồ biên giới có sử dụng các tàu kiểm soát quân sự có vũ trang. Công dân Thụy Sỹ bị cấm phục vụ trong quân đội ngoại quốc, ngoại trừ Đội cận vệ Thụy Sỹ của Vatican, hoặc nếu họ có quốc tịch kép của một nước khác và cư trú tại đó.

Cấu trúc của hệ thống dân quân Thụy Sỹ quy định rằng các binh sĩ giữ thiết bị mà Quân đội phát cho tại nhà, bao gồm toàn bộ vũ khí cá nhân. Một số tổ chức và chính đảng tranh luận về thực tiễn này[67] Nghĩa vụ quân sự áp dụng cho toàn bộ nam công dân Thụy Sỹ; nữ giới có thể phục vụ tự nguyện. Nam giới thường nhận lệnh huấn luyện nghĩa vụ quân sự vào năm 18 tuổi.[68] Khoảng hai phần ba thanh niên Thụy Sỹ phù hợp để phục vụ; có một số hình thức phục vụ thay thế đối với những người được đánh giá là không phù hợp.[69] Mỗi năm có khoảng 20.000 người được huấn luyện tại các trung tâm tuyển quân trong khoảng thời gian từ 18 đến 21 tuần lễ. Cải cách "Lục quân XXI" được dân chúng thông qua vào năm 2003, thay thế mô hình "Lục quân 95" trước đó, giảm chiến binh từ 400.000 xuống khoảng 200.000. Trong đó, 120.000 người tại ngũ trong thời kỳ huấn luyện và 80.000 binh sĩ dự bị phi huấn luyện.[70]

Tổng thể, Thụy Sỹ từng ba lần tuyên bố tổng động viên nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và tính trung lập của Thụy Sỹ. Lần đầu tiên nhằm ứng phó với Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871. Lần thứ hai là nhằm ứng phó với bùng phát Chiến tranh thế giới thứ nhất vào tháng 8 năm 1914. Lần thứ ba diễn ra vào tháng 9 năm 1939 nhằm ứng phó trước việc Đức xâm lược Ba Lan; Henri Guisan được bầu làm tổng tư lệnh.

Do có chính sách trung lập, quân đội Thụy Sỹ hiện không tham gia các xung đột quân sự tại nước ngoài, song nằm trong một số sứ mệnh duy trì hòa bình khắp thế giới. Kể từ năm 2000 cơ quan lực lượng vũ trang cũng duy trì hệ thống thu thập tình báo Onyx nhằm theo dõi truyền thông vệ tinh.[71]

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, có một số nỗ lực nhằm hạn chế hoạt động quân sự hoặc thậm chí là bãi bỏ lực lượng vũ trang. Một cuộc trưng cầu dân ý đáng chú ý về vấn đề này được một nhóm chống quân phiệt phát động, được tổ chức vào năm 1989. Kết quả là thất bại khi hai phần ba cử tri bác bỏ đề xuất.[72][73] Một cuộc trưng cầu dân ý tương tự được tổ chức không lâu sau Sự kiện 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ có kết quả là 78% cử tri bác bỏ[74]

Thụy Sỹ có chính sách về súng độc nhất tại châu Âu do có tỷ lệ tương đối lớn (29%) công dân có vũ trang hợp pháp. Đa số lớn vũ khí được giữ tại nhà là loại được phát cho dân quân, song đạn dược không được phát.[75][76]

Omega Speedmaster được mang lên Mặt trăng trong sứ mệnh Apollo. Xét theo giá trị, Thụy Sỹ sản xuất một nửa lượng đồng hồ của thế giới.[42][77]

Thụy Sỹ có một nền kinh tế ổn định, thịnh vượng và công nghệ cao, có được của cải lớn. Năm 2011, quốc gia này được xếp hạng giàu có nhất thế giới về bình quân đầu người ("giàu" được xác định bao gồm tài sản tài chính và phi tài chính), trong khi Báo cáo Của cải Toàn cầu Credit Suisse 2013 cho thấy rằng Thụy Sỹ có lượng của cải bình quân đầu người cao nhất trong năm đó.[78][79][80] Thụy Sỹ là nền kinh tế lớn thứ 19 theo GDP danh nghĩa và lớn thứ 11 theo sức mua tương đương (2016). Đây là nước xuất khẩu lớn thứ 18 thế giới (2015) dù có kích thước nhỏ. Thụy Sỹ được xếp hạng cao nhất châu Âu về Chỉ số Tự do Kinh tế năm 2010.[81] GDP danh nghĩa bình quân của Thụy Sỹ cao hơn của các nền kinh tế lớn tại Tây-Trung Âu và Nhật Bản.[82]

Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp hạng kinh tế Thụy Sỹ là cạnh tranh nhất toàn thế giới (2016-2017),[83] trong khi Liên minh châu Âu xếp hạng Thụy Sỹ là quốc gia sáng tạo nhất châu lục (2010).[84][85] Trong phần lớn thế kỷ XX, Thụy Sỹ là quốc gia giàu có nhất tại châu Âu với một khoảng cách đáng kể (theo GDP/người).[86] Năm 2007, thu nhập hộ gia đình trung bình tại Thụy Sỹ ước tính đạt 137.094 USD theo sức mua tương đương trong khi thu nhập trung bình là 95.824 USD.[87] Thụy Sỹ là một trong các quốc gia cân bằng tài khoản vãng lai lớn nhất theo tỷ lệ GDP.

Khu vực Đại Zürich là nơi ở của 1,5 triệu cư dân và có 150.000 công ty, đây là một trong các trung tâm kinh tế quan trọng nhất trên thế giới.[88]

Thụy Sỹ có một số tập đoàn đa quốc gia lớn. Các công ty lớn nhất Thụy Sỹ theo doanh thu là Glencore, Gunvor, Nestlé, Novartis, Hoffmann-La Roche, ABB, Mercuria Energy Group và Adecco.[89] Ngoài ra, còn phải chú ý đến UBS AG, Zurich Financial Services, Credit Suisse, Barry Callebaut, Swiss Re, Tetra Pak, The Swatch GroupSwiss International Air Lines. Thụy Sỹ được xếp vào hàng các nền kinh tế mạnh nhất thế giới.[86]

Lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của Thụy Sỹ là chế tạo. Ngành chế tạo phần lớn gồm sản xuất các mặt hàng hóa chất, y dược chuyên biệt, các dụng cụ đo lường khoa học và chính xác, và nhạc cụ. Mặt hàng xuất khẩu lớn nhất là hóa chất, máy móc/đồ điện tử, và thiết bị/đồng hồ chính xác.[90] Xuất khẩu dịch vụ chiếm 1/3 tổng giá trị xuất khẩu.[90] Lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là ngân hàng, bảo hiểm, du lịch và các tổ chức quốc tế là một ngành quan trọng khác của Thụy Sỹ.

Khoảng hơn 5 triệu người làm việc tại Thụy Sỹ theo số liệu năm 2017,[91] khoảng 25% người lao động thuộc một tổ chức công đoàn vào năm 2004.[92] Thụy Sỹ có thị trường lao động linh hoạt hơn so với các quốc gia láng giềng và tỷ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp. Tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 1,7% trong tháng 6 năm 2000 lên đến đỉnh là 4,4% trong tháng 12 năm 2009.[93] Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 3,2% vào năm 2014 và không giảm thêm vào năm 2015 và 2016.[94][95] Tăng trưởng dân số bắt nguồn từ di cư thuần là khá cao, ở mức 0,52% dân số vào năm 2004.[90] Cư dân là công dân ngoại quốc chiếm 21,8% vào năm 2004,[90] tương đương với Úc. GDP theo giờ làm việc cao thứ 16 thế giới, với 49,46 dollar quốc tế vào năm 2012.[96]

Khu vực tư nhân chiếm áp đảo trong kinh tế Thụy Sỹ và mức thuế tại đây thấp theo tiêu chuẩn Phương Tây. Thụy Sỹ là quốc gia tương đối dễ dàng để kinh doanh, đứng thứ 26 về Chỉ số thuận lợi kinh doanh (2016). Thụy Sỹ trải qua tăng trưởng chậm trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, tạo ra ủng hộ lớn hơn cho các cải cách kinh tế và hài hòa với Liên minh châu Âu.[97][98] Theo Credit Suisse, năm 2007 chỉ khoảng 37% cư dân sở hữu nhà ở, nằm vào hàng thấp nhất tại châu Âu. Giá nhà ở và thực phẩm cao hơn 171% và 145% so với các quốc gia EU vào năm 2007, tương đương với 113% và 104% so với Đức.[90]

Ngân sách liên bang Thụy Sỹ có quy mô 62,8 tỷ franc Thụy Sỹ vào năm 2010, tương đương 11,35% GDP quốc gia trong năm; tuy nhiên ngân sách khu vực (cấp bang) và ngân sách các khu tự quản không được tính vào trong ngân sách liên bang và tổng chi tiêu chính phủ là gần 33,8% GDP. Nguồn thu nhập chủ yếu của chính phủ liên bang là thuế giá trị gia tăng (33%) và thuế liên bang trực tiếp (29%) và chi tiêu chủ yếu nằm tại các khu vực phúc lợi xã hội và tài chính & thuế. Chi tiêu của Liên bang Thụy Sỹ tăng từ 7% GDP vào năm 1960 lên 9,7% vào năm 1990 và đến 10,7% vào năm 2010. Trong khi các lĩnh vực phúc lợi xã hội và tài chính & thuế tăng từ 35% vào năm 1990 lên 48,2% vào năm 2010, một sự suy giảm đáng kể chi tiêu đang diễn ra trong các lĩnh vực nông nghiệp và quốc phòng, từ 26,5% xuống 12,4% (ước tính vào năm 2015).[99][100]

Chủ nghĩa bảo hộ nông nghiệp là một ngoại lệ hiếm hoi trong chính sách mậu dịch tự do của Thụy Sỹ, nó góp phần khiến giá thực phẩm ở mức cao. Tự do hóa thị trường sản phẩm tụt hậu so với nhiều quốc gia EU theo đánh giá của OECD.[97] Tuy thế, sức mua nội địa nằm vào hàng tốt nhất thế giới.[101][102][103] Ngoài nông nghiệp, các hàng rào kinh tế và mậu dịch giữa Liên minh châu Âu và Thụy Sỹ là tối thiểu và Thụy Sỹ có các thỏa thuận mậu dịch tự do trên toàn cầu. Thụy Sỹ là một thành viên của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA).

Giáo dục và khoa học

[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo dục tại Thụy Sỹ rất đa dạng do Hiến pháp Thụy Sỹ ủy thác cho các bang giữ thẩm quyền về hệ thống trường học.[104] Tồn tại các trường học công lập và tư thục, trong đó có nhiều trường học quốc tế tư nhân. Tuổi tối thiểu đối với trường tiểu học là khoảng sáu tuổi tại toàn bộ các bang, song hầu hết các bang cung cấp một "trường học trẻ em" miễn phí bắt đầu từ năm 4 hoặc 5 tuổi.[104] Cấp tiểu học kéo dài đến lớp bốn, năm hoặc sáu, tùy theo trường học. Theo truyền thống, ngoại ngữ thứ nhất trong trường học luôn là một trong các ngôn ngữ chính thức khác của Thụy Sỹ, song gần đây tiếng Anh được đưa vào làm ngoại ngữ thứ nhất tại một số bang.[104]

Đến cuối cấp tiểu học (hoặc đầu cấp trung học), học sinh được phân loại theo khả năng của họ theo một vài (thường là ba) lĩnh vực. Những trẻ học nhanh hơn được dạy trong các lớp học tiên tiến để chuẩn bị cho học tập sâu hơn và kỳ thi tú tài,[104] còn những trẻ tiếp thu chậm hơn một chút được tiếp nhận giáo dục thích ứng hơn với nhu cầu của chúng.

Khuôn viên của Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Zürich (ETHZ).

Thụy Sỹ có 12 đại học, mười trường duy trì thuộc cấp bang và thường cung cấp lĩnh vực các môn học phi kỹ thuật. Đại học đầu tiên tại Thụy Sỹ được thành lập vào năm 1460 tại Basel (với một khoa y) và có truyền thống về nghiên cứu hóa học và y học tại Thụy Sỹ. Đại học lớn nhất tại Thụy Sỹ là Đại học Zürich với khoảng 25.000 sinh viên. Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Zürich (ETHZ) và Đại học Zürich được xếp thứ 20 và 54 theo Xếp hạng Học thuật Đại học Thế giới 2015 của Đại học Giao thông Thượng Hải.[105]

Hai học viện được chính phủ liên bang tài trợ là Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Zürich (ETHZ) thành lập vào năm 1855 và Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Lausanne (EPFL) được thành lập vào năm 1969- trước đó là một viện liên kết với Đại học Lausanne.[note 3][106][107]

Ngoài ra, tồn tại một số đại học khoa học ứng dụng (Fachhochschule). Trong nghiên cứu kinh doanh và quản trị, Đại học St. Gallen được xếp hạng thứ 329 trong Bảng xếp hạng đại học thế giới QS[108] và xếp hạng nhất về chương trình mở toàn cầu theo Financial Times.[109] Thụy Sỹ có tỷ lệ cao thứ hai (gần 18% vào năm 2003) sinh viên ngoại quốc ở cấp đại học, sau Úc (hơn 18% một chút).[110][111]

Như để thích hợp với một quốc gia trong vai trò là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, Viện Sau đại học Nghiên cứu Quốc tế và Phát triển (IHEID) đặt tại Genève là trường sau đại học nghiên cứu quốc tế và phát triển lâu năm nhất tại châu Âu lục địa, và được nhìn nhận phổ biến là một trong những trường uy tín nhất.[112][113]

Nhiều nhà khoa học Thụy Sỹ từng nhận được giải thưởng Nobel, trong đó có nhà vật lý học nổi tiếng thế giới Albert Einstein,[114] ông phát triển thuyết tương đối hẹp của mình trong thời gian làm việc tại Bern. Gần đây có các nhà khoa học Thụy Sỹ Vladimir Prelog, Heinrich Rohrer, Richard Ernst, Edmond Fischer, Rolf ZinkernagelKurt Wüthrich nhận giải Nobel. Tổng cộng, Thụy Sỹ giành hơn 100 giải Nobel trong toàn bộ các lĩnh vực[115] và Giải Nobel Hòa bình được trao chín lần cho các tổ chức có trụ sở tại Thụy Sỹ.[116]

Đường hầm LHC. CERN là phòng thí nghiệm lớn nhất thế giới và cũng là nơi khai sinh của World Wide Web.[117]

Genève và tỉnh Ain thuộc Pháp nằm kế bên cùng là nơi đặt phòng thí nghiệm lớn nhất thế giới là CERN,[118] dành cho nghiên cứu vật lý hạt. Viện Paul Scherrer là trung tâm nghiên cứu quan trọng khác. Các phát minh đáng chú ý gồm có thuốc ảo giác lysergic acid diethylamide (LSD), kính hiển vi quét xuyên hầmVelcro. Một số công nghệ cho phép thám hiểm các thế giới mới như bóng áp lực của Auguste PiccardBathyscaphe, cho phép Jacques Piccard tiếp cận điểm sâu nhất của đại dương thế giới.

Văn phòng Không gian Thụy Sỹ tham gia một số công nghệ và chương trình không gian. Ngoài ra, họ còn là một trong 10 thể chế sáng lập Cơ quan Không gian châu Âu vào năm 1975 và đóng góp lớn thứ bảy cho ngân sách của cơ quan này. Trong khu vực tư nhân, một số công ty liên quan đến công nghiệp không gian như Oerlikon Space[119] hay Maxon Motors[120] họ cung cấp các cấu trúc tàu vũ trụ.

Năng lượng, hạ tầng và môi trường

[sửa | sửa mã nguồn]
Thụy Sỹ có các đập nước cao nhất tại châu Âu, trong đó có Đập Mauvoisin trên dãy Alpes. Thủy điện là nguồn năng lượng nội địa quan trọng nhất của quốc gia.

56% điện năng tại Thụy Sỹ là từ thủy điện, và 39% là từ điện hạt nhân, kết quả là hệ thống phát điện gần như không thải CO2. Ngày 18 tháng 5 năm 2003, hai sáng kiến chống điện hạt nhân bị bác bỏ: Moratorium Plus nhằm mục tiêu cấm chỉ xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới,[121] và Điện năng Không Hạt nhân.[122] Tuy nhiên, do tác động từ sự cố hạt nhân Fukushima tại Nhật Bản, Chính phủ Thụy Sỹ vào năm 2011 công bố rằng có kế hoạch kết thúc sử dụng năng lượng hạt nhân trong vòng hai hoặc ba thập niên tới.[123] Tháng 11 năm 2016, cử tri Thụy Sỹ bác bỏ một đề xuất của Đảng Xanh về đẩy nhanh thôi dần năng lượng hạt nhân.[124] Văn phòng Năng lượng Liên bang Thụy Sỹ (SFOE) chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề liên quan đến cung ứng năng lượng và sử dụng năng lượng. Cơ quan này ủng hộ sáng kiến xã hội 2.000 W (trung bình một người dùng không quá 48 KWh mỗi ngày) nhằm cắt giảm sử dụng năng lượng quốc gia xuống hơn một nửa vào năm 2050.[125]

Thụy Sỹ có mạng lưới đường sắt dày đặc nhất tại châu Âu,[42] gồm 5.250 kilômét (3.260 mi) chuyên chở 596 triệu lượt hành khách mỗi năm (tính đến 2015).[126] Năm 2015, mỗi công dân Thụy Sỹ đi trung bình 2.550 kilômét (1.580 mi) bằng tàu hỏa, do đó là những người sử dụng đường sắt nhiều nhất.[126] Gần như 100% mạng lưới được điện khí hóa. Đa số (60%) hệ thống do Đường sắt Liên bang Thụy Sỹ (SBB CFF FFS) điều hành. BLS AG vận hành đường sắt khổ tiêu chuẩn lớn thứ nhì, hai công ty đường sắt khác vận hành mạng lưới khổ nhỏ là Đường sắt Rhaetian (RhB) tại bang đông nam Graubünden, trong đó có một số đoạn là di sản thế giới,[127] và Matterhorn Gotthard Bahn (MGB) đồng vận hành cùng RhB đối với Glacier Express giữa ZermattSt. Moritz/Davos. Ngày 31 tháng 5 năm 2016, Đường hầm Gotthard qua dãy Alpes được khai thông, là đường hầm đường sắt dài nhất và sâu nhất thế giới với chiều dài 57,1 kilômét long (35,5 mi).

Mạng lưới đường bộ Thụy Sỹ được quản lý kết hợp công-tư, quỹ lấy từ phí đường bộ và thuế xe. Hệ thống xa lộ cao tốc Thụy Sỹ yêu cầu mua một tem thuế có giá 40 franc Thụy Sỹ mỗi năm theo lịch để sử dụng đường, áp dụng với cả xe chở khách và chở hàng. Hệ thống xa lộ cao tốc Thụy Sỹ có tổng chiều dài 1.638 km (1.018 mi) (tính đến năm 2000), và so với diện tích toàn quốc là 41.290 km2 (15.940 dặm vuông Anh) thì đây cũng là một trong những hệ thống xa lộ dày đặc nhất thế giới.[128] Sân bay Zürich là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn nhất của Thụy Sỹ, chuyên chở 22,8 triệu lượt hành khách vào năm 2012.[129] Các sân bay quốc tế khác là Sân bay Genève (13,9 triệu hành khách vào năm 2012),[130] EuroAirport Basel-Mulhouse-Freiburg trên lãnh thổ Pháp, Sân bay Bern, Sân bay Lugano, Sân bay St. Gallen-AltenrheinSân bay Sion. Swiss International Air Lines là hãng hàng không quốc gia của Thụy Sỹ, có trung tâm chính là Zürich.

Thụy Sỹ nằm trong số các quốc gia phát triển có thành tựu môi trường tốt nhất;[131] Thụy Sỹ ký kết Nghị định thư Kyoto vào năm 1998 và phê chuẩn nó vào năm 2003. Cùng với MexicoHàn Quốc tạo thành Tổ chức Toàn vẹn Môi trường (EIG).[132] Thụy Sỹ rất tích cực trong các quy định tái chế và chống xả rác, và là một trong những nước tái chế hàng đầu trên thế giới, với 66-96% vật liệu có thể tái chế đã được tái chế vào năm 2010, tùy theo khu vực.[133] Chỉ số Kinh tế Xanh Toàn cầu 2014 xếp hạng Thụy Sỹ nằm trong 10 nền kinh tế xanh hàng đầu thế giới.[134]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Mật độ dân số tại Thụy Sỹ (2019)

Năm 2022, dân số Thụy Sỹ ước đạt 8,508,698 người.[135] Tương tự như các quốc gia phát triển khác, dân số Thụy Sỹ gia tăng nhanh chóng trong thời kỳ công nghiệp hóa, tăng bốn lần từ năm 1800 đến năm 1990. Tăng trưởng từ đó ổn định, và như hầu hết châu Âu, Thụy Sỹ hiện phải đối diện với kết cấu dân số lão hóa, song được dự báo tăng trưởng liên tục hàng năm cho đến năm 2035 phần lớn là do nhập cư và tỷ suất sinh gần đến mức thay thế.[136]

Tính đến năm 2012, cư dân là người ngoại quốc chiếm 23,3% dân số, một trong các tỷ lệ cao nhất tại thế giới phát triển.[137] Hầu hết trong số họ (64%) đến từ Liên minh châu Âu hoặc các quốc gia EFTA.[138] Người Ý là dân tộc đơn lẻ lớn nhất trong số người ngoại quốc với tỷ lệ 15,6% trong nhóm này, tiếp đến là người Đức (15,2%), di dân từ Bồ Đào Nha (12,7%), Pháp (5,6%), Serbia (5,3%), Thổ Nhĩ Kỳ (3,8%), Tây Ban Nha (3,7%), và Áo (2%). Di dân Sri Lanka với hầu hết là người tị nạn Tamil là nhóm lớn nhất trong những người gốc Á.[138]

Ngoài ra, số liệu từ năm 2012 cho thấy 34,7% dân số thường trú từ 15 tuổi trở lên tại Thụy Sỹ (tức khoảng 2,33 triệu người) có một xuất thân nhập cư. Một phần ba trong số đó (853.000) giữ quyền công dân Thụy Sỹ. Bốn phần năm số người có một xuất thân nhập cư là người nhập cư; còn một phần năm sinh tại Thụy Sỹ.[139]

Trong thập niên 2000, các tổ chức nội địa và quốc tế bày tỏ lo ngại về điều được nhìn nhận là gia tăng bài ngoại, đặc biệt là trong một số chiến dịch chính trị. Phản ứng trước một báo cáo phê phán, Hội đồng Liên bang lưu ý rằng "chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đáng tiếc là hiện diện tại Thụy Sỹ", song phát biểu rằng tỷ lệ cao công dân ngoại quốc tại đây, cũng như việc người ngoại quốc hội nhập nhìn chung là không có vấn đề cho thấy sự cởi mở của Thụy Sỹ.[140]

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]
Phân bổ ngôn ngữ tại Thụy Sỹ (2017):
  Tiếng Đức (63,5%)
  Tiếng Pháp (22,5%)
  Tiếng Ý (8,1%)
  Tiếng Romansh (0,5%)

Thụy Sỹ có bốn ngôn ngữ chính thức: Tiếng Đức chiếm đa số (63,3% dân số nói vào năm 2014); tiếng Pháp (22,7%) tại miền tây; và tiếng Ý (8,1%) tại miền nam.[141] Ngôn ngữ thứ tư là tiếng Romansh (0,5%), đây là một ngôn ngữ thuộc hệ Latinh và được nói ở quy mô địa phương tại bang Graubünden thuộc miền đông nam. Tuy nhiên, pháp luật liên bang và các đạo luật chính thức khác không cần thiết được ban hành bằng tiếng Romansh.

Năm 2013, các ngôn ngữ được nói nhiều nhất tại nhà trong số cư dân thường trú từ 15 tuổi trở lên là tiếng Đức-Thụy Sỹ (60,1%), tiếng Pháp (23,4%), tiếng Đức tiêu chuẩn (10,1%), và tiếng Ý (8,4%). Trên hai phần năm (42,6%) cư dân thường trú biểu thị thường xuyên nói hơn một ngôn ngữ. Các ngôn ngữ khác được nói tại nhà gồm có tiếng Anh (4,6%), tiếng Bồ Đào Nha (3,5%), tiếng Albania (2.6%), tiếng Serbia và Croatia (2,5%), tiếng Tây Ban Nha (2,2%), và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ (1,3%).[141]

Chính phủ liên bang có nghĩa vụ giao thiệp bằng các ngôn ngữ chính thức, và trong nghị viện liên bang các bản dịch đồng thời được cung cấp giữa tiếng Đức, Pháp và Ý.[142]

Ngoài dạng chính thức, bốn khu vực ngôn ngữ của Thụy Sỹ cũng có dạng phương ngữ của mình. Vai trò của phương ngữ trong mỗi khu vực ngôn ngữ khác biệt đáng kể: Tại các khu vực nói tiếng Đức, tiếng Đức-Thụy Sỹ ngày càng trở nên thịnh hành hơn kể từ nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là trong truyền thông, và được sử dụng làm ngôn ngữ thường nhật, trong khi giao thiệp bằng văn bản hầu như luôn sử dụng dạng tiếng Đức tiêu chuẩn của Thụy Sỹ.[143] Tương phản, tại các khu vực nói tiếng Pháp, phương ngữ bản địa hầu như đã biến mất, trong khi các phương ngữ tại các khu vực nói tiếng Ý hầu như bị hạn chế trong bối cảnh gia đình và đàm thoại bình thường.[143]

Học một trong các ngôn ngữ quốc gia khác tại trường học là điều bắt buộc đối với toàn bộ học sinh Thụy Sỹ, do đó nhiều người Thụy Sỹ được giả định ít nhất là song ngữ, đặc biệt là những người thuộc các nhóm thiểu số ngôn ngữ.[144]

Toàn thể công dân Thụy Sỹ được yêu cầu mua bảo hiểm y tế từ các công ty bảo hiểm tư nhân, ngược lại các công ty được yêu cầu chấp nhận bất kỳ người nào nộp đơn. Chi phí của hệ thống y tế Thụy Sỹ nằm vào hàng cao nhất, song có kết quả tốt so với các quốc gia châu Âu khác; các bệnh nhân là công dân Thụy Sỹ được báo cáo nhìn chung là hài lòng cao độ với hệ thống.[145][146][147] Năm 2012, tuổi thọ dự tính khi sinh là 80,4 đối với nam giới và 84,7 đối với nữ giới[148] — là con số cao nhất thế giới.[149][150] Chi tiêu vào y tế đặc biệt cao với 11,4% GDP (2010), song ngang hàng với Đức và Pháp (11,6%) cùng các quốc gia châu Âu khác, và thấp hơn đáng kể chi tiêu tại Hoa Kỳ (17,6%).[151] Từ năm 1990, ghi nhận được có tình trạng tăng dần chi phí, phản ánh chi phí cao của các dịch vụ được cung ứng.[152] Do dân số đang lão hóa và các kỹ thuật y tế mới, chi tiêu cho y tế dường như sẽ tiếp tục tăng lên.[152]

Đô thị hóa

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ hai phần ba đến ba phần tư dân số cư trú tại các khu vực đô thị.[153][154] Thụy Sỹ biến đổi từ một quốc gia phần lớn cư dân sống tại nông thôn sang một quốc gia phần lớn cư dân sống tại đô thị trong vòng 70 năm. Tình trạng mở rộng đô thị này không chỉ tác động đến cao nguyên Thụy Sỹ mà còn đến dãy Jura và chân núi Alpes[155] và có lo ngại gia tăng về sử dụng đất.[156] Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XXI, tăng trưởng dân số tại khu vực đô thị cao hơn tại khu vực nông thôn.[154]

Thụy Sỹ có một mạng lưới thành phố dày đặc, có các thành phố cỡ lớn, vừa và nhỏ bổ khuyết cho nhau.[154] Cao nguyên Thụy Sỹ có mật độ dân số rất cao với khoảng 450 người/km² và cảnh quan liên tục biểu thị dấu hiệu con người hiện diện.[157] Sức nặng của các đại đô thị là Zürich, GenèveLausanne, BaselBern có xu hướng gia tăng.[154] Theo so sánh quốc tế, tầm quan trọng của các khu vực đô thị này mạnh hơn so với số lượng cư dân của chúng.[154] Ngoài ra, hai trung tâm chính là Zürich và Genève được công nhận có chất lượng sinh hoạt đặc biệt cao.[158]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo (trên 15 tuổi) tại Thụy Sĩ – 2014[159]
Tôn giáo Phần trăm
Công giáo La Mã
  
38.0%
Cải cách Thụy Sĩ
  
26.0%
Chính thống giáo Đông phương
  
2.2%
Phúc Âm
  
1.7%
Giáo hội Luther
  
1.0%
Anh giáo
  
0.1%
Cơ Đốc giáo khác
  
2.5%
Hồi giáo
  
5.0%
Phật giáo
  
0.5%
Ấn Độ giáo
  
0.5%
Do Thái giáo
  
0.2%
phi Cơ Đốc khác
  
0.3%
Không liên kết
  
22.0%

Thụy Sỹ không có quốc giáo, song hầu hết các bang (ngoại trừ GenèveNeuchâtel) công nhận các giáo hội chính thức, là Giáo hội Công giáo La Mã hoặc Giáo hội Cải cách Thụy Sỹ. Các giáo hội này, và tại một số bang còn có các giáo đoàn Công giáo Cổ và Do Thái giáo, được tài trợ bằng thuế chính thức từ các tín đồ.[160]

Kitô Giáo là tôn giáo chủ yếu của Thụy Sỹ (khoảng 71% cư dân[161] và 75% công dân Thụy Sỹ[162]), bị phân chia giữa Công giáo La Mã (38,21% dân số), Giáo hội Cải cách Thụy Sỹ (26,93%), các giáo hội Tin Lành khác (2,89%) và các giáo phái Kitô khác (2,79%). Gần đây có sự nổi lên của phái Phúc Âm.[163] Sự nhập cư lập nên các cộng đồng tôn giáo thiểu số đáng kể, như Hồi giáo (4,95%) và Chính thống giáo Đông phương (khoảng 2%).[161] Theo một trưng cầu vào năm 2015 của Gallup International, 12% dân chúng Thụy Sỹ tự xác định là "người vô thần xác tín."[164]

Theo điều tra nhân khẩu năm 2000, các cộng đồng thiểu số Kitô khác gồm có Tân Mộ đạo (Pietism) (0,44%), Ngũ Tuần (0,28%), Giám Lý (0.13%), Tân Tông đồ (0,45%), Nhân Chứng Giê-hô-va (0,28%), giáo phái Tin Lành khác (0,20%), Công giáo Cổ (0,18%), các giáo phái Kitô khác (0,20%). Các tôn giáo phi Cơ Đốc là Ấn Độ giáo (0,38%), Phật giáo (0,29%), Do Thái giáo (0,25%) và khác (0,11%); 4,3% không tuyên bố. 21,4% vào năm 2012 tự tuyên bố là không giáo phái, tức không liên kết với bất kỳ giáo hội hoặc cơ cấu tôn giáo nào.[161][165]

Quốc gia có lịch sử cân bằng ngang nhau giữa Công giáo và Tin Lành, có sự đan xen phức tạp về phái chiếm đa số tại hầu hết lãnh thổ. Genève cải sang Tin Lành vào năm 1536, ngay trước khi John Calvin đến đó. Nơi này được quốc tế gọi là "Roma Tin Lành" do là căn cứ của nhiều nhà cải cách như Theodore Beza hay William Farel. Zürich trở thành một thành trì Tin Lành khác khoảng cùng thời điểm, khi Huldrych ZwingliHeinrich Bullinger nắm quyền lãnh đạo tại đó. Có một bang là Appenzell bị phân chia chính thức giữa các phái Công giáo và Tin Lành vào năm 1597. Các thành phố lớn và bang mà chúng thuộc về (Bern, Genève, Lausanne, Zürich và Basel) là nơi Tin Lành chiếm ưu thế. Trung Thụy Sỹ cùng với Valais, Ticino, Appenzell Innerrhodes,JuraFribourg có truyền thống Công giáo. Hiến pháp Thụy Sỹ 1848 do ảnh hưởng từ xung đột giữa các bang Công giáo và Tin Lành đương thời nên cố ý xác định một tình trạng hiệp thương, cho phép Công giáo và Tin Lành cùng tồn tại hòa bình. Một sáng kiến vào năm 1980 kêu gọi hoàn toàn tách biệt giáo hội và nhà nước đã bị 78,9% cử tri bác bỏ.[166] Một số bang và thành phố có truyền thống Tin Lành ngày nay có một đa số nhỏ Công giáo, không phải vì phái này có tín đồ tăng lên, mà chỉ là vì từ khoảng năm 1970 có sự gia tăng dần lượng người không liên kết với bất kỳ giáo hội hoặc cơ cấu tôn giáo khác, đặc biệt là tại các khu vực truyền thống Tin Lành như thành phố Basel (42%), bang Neuchâtel (38%), bang Genève (35%), bang Vaud (26%), hay thành phố Zürich (>25%%).[167]

Buổi hòa nhạc kèn Alphorn tại Vals

Văn hóa Thụy Sỹ mang đặc điểm là đa dạng, phản ánh thông qua phạm vi rộng các phong tục truyền thống.[168] Một khu vực có thể bằng một số cách thức để giữ liên kết mạnh với quốc gia láng giềng chia sẻ cùng ngôn ngữ với họ, bản thân Thụy Sỹ có gốc là văn hóa Tây Âu.[169] Văn hóa Romash cô lập về ngôn ngữ tại bang Graubünden là ngoại lệ, nó tồn tại chỉ trên các thung lũng cao thuộc lưu vực sông Rhine và Inn và phấn đấu duy trì truyền thống ngôn ngữ hiếm của mình.

Thụy Sỹ có nhiều cư dân có đóng góp nổi bật cho văn học, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc và khoa học. Ngoài ra quốc gia này còn thu hút một số cá nhân sáng tạo trong thời kỳ bất ổn hoặc chiến tranh tại châu Âu.[170] Thụy Sỹ có khoảng 1000 bảo tàng, được phân bổ trên toàn quốc; số lượng tăng gấp ba lần kể từ năm 1950.[171] Trong số các cuộc trình diễn văn hóa quan trọng nhất được tổ chức thường niên có Lễ hội Paléo, Lễ hội Lucerne,[172] Lễ hội Jazz Montreux,[173] Liên hoan Phim Quốc tế Locarno và Art Basel.[174]

Chủ nghĩa biểu tượng Alpes đóng vai trò thiết yếu trong hình thành lịch sử quốc gia và bản sắc dân tộc Thụy Sỹ.[12][175] Ngày nay một số vùng núi tập trung có văn hóa nghỉ dưỡng trượt tuyết sôi nổi vào mùa đông, và văn hóa đi bộ đường dài hoặc xe đạp leo núi vào mùa hè. Các khu vực khác trong suốt năm có văn hóa giải trí phục vụ cho du lịch, song mùa xuân và mùa thu vắng vẻ hơn do ít du khách hơn. Văn hóa nông dân và mục dân truyền thống cũng chi phối tại nhiều khu vực, các nông trại nhỏ hiện diện khắp nơi khi ra khỏi các thành phố. Nghệ thuật dân gian được duy trì tồn tại trong các tổ chức khắp Thụy Sỹ, chủ yếu được thể hiện bằng âm nhạc, vũ đạo, thơ, khắc gỗ và thêu. Alphorn là một nhạc cụ giống như trumpet làm bằng gỗ, nó cùng với lối hát yodelphong cầm là khái quát của âm nhạc truyền thống Thụy Sỹ.[176][177]

Văn học

[sửa | sửa mã nguồn]
Jean-Jacques Rousseau không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà triết học có ảnh hưởng vào thế kỷ XVIII.[178]

Với tư cách liên bang, hình thành từ năm 1291 và khi đó hầu như chỉ bao gồm các khu vực nói tiếng Đức, dạng văn học sớm nhất của Thụy Sỹ được viết bằng tiếng Đức. Đến thế kỷ XVIII, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ thời thượng tại Bern và nơi khác, với ảnh hưởng của các đồng minh và lãnh thổ lệ thuộc nói tiếng Pháp trở nên rõ ràng hơn.[179]

Trong số tác giả kinh điển của văn học tiếng Đức tại Thụy Sỹ có Jeremias Gotthelf (1797–1854) và Gottfried Keller (1819–1890). Các nhân vật phi thường của văn học Thụy Sỹ trong thế kỷ XX là Max Frisch (1911–1991) và Friedrich Dürrenmatt (1921–1990), có các tiết mục Die Physiker (Các nhà vật lý học) và Das Versprechen (Thề nguyện), được Hollywood dựng phim và phát hành vào năm 2001.[180]

Các nhà văn tiếng Pháp xuất chúng là Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) và Germaine de Staël (1766–1817). Các tác giả gần đây hơn là Charles Ferdinand Ramuz (1878–1947) và Blaise Cendrars (1887–1961).[180]

Có lẽ sáng tạo văn học nổi tiếng nhất của Thụy Sỹ là Heidi, một câu chuyện về cô bé mồ côi sống với ông trên dãy Alpes, đây là một trong số các sách thiếu nhi nổi tiếng nhất cho đến nay và trở thành một tượng trưng của Thụy Sỹ. Tác giả của truyện là Johanna Spyri (1827–1901), bà còn viết một số sách khác về đề tài tương tự.[180]

Truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Tự do báo chí và quyền tự do biểu đạt được đảm bảo trong hiến pháp liên bang của Thụy Sỹ.[181] Thống tấn xã Thụy Sỹ (SNA) phát thông tin mỗi giờ bằng ba trong bốn ngôn ngữ chính thức về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. SNA cũng cấp tin tức cho hầu như toàn bộ truyền thông Thụy Sỹ và hàng chục dịch vụ truyền thông ngoại quốc.[181]

Thụy Sỹ có số đầu báo phát hành lớn nhất xét theo tỷ lệ với dân số và kích thước.[182] Các báo có ảnh hưởng nhất là Tages-Anzeiger và Neue Zürcher Zeitung (NZZ) viết bằng tiếng Đức, và Le Temps viết bằng tiếng Pháp, song hầu như mỗi thành phố đều có ít nhất một báo địa phương. Sự đa dạng văn hóa giải thích việc có số lượng lớn báo chí.[182]

Chính phủ áp dụng kiểm soát nhiều hơn đối với truyền thông phát sóng so với truyền thông in ấn, đặc biệt là tài chính và cấp phép.[182] Tập đoàn Phát sóng Thụy Sỹ SRG SSR chịu trách nhiệm sản xuất và phát sóng các chương trình phát thanh và truyền hình. Các phòng thu của SRG SSR được phân bố khắp các khu vực ngôn ngữ. Nội dung phát thanh được sản xuất tại sáu phòng thu trung ương và bốn phòng thu khu vực, trong khi các chương trình truyền hình được sản xuất tại Genève, ZürichLugano. Một mạng lưới cáp quy mô rộng cũng cho phép hầu hết người Thụy Sỹ tiếp cận với các chương trình từ các quốc gia láng giềng.[182]

Kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]

Kiến trúc ở Thụy Sỹ có truyền thống lâu đời. Phong cách Romanesque của thế kỷ 12 có thể được tìm thấy trong các nhà thờBasel, Sion, Chur, GenevaLausanne. Phong cách này, rất phong phú về biểu hiện, cũng có thể được tìm thấy ở nhiều lâu đài và pháo đài khắp đất nước, nhiều trong số đó vẫn còn ở trong tình trạng tốt. Các nhà thờ ở Schaffhausen, ZugZürich có phong cách Gothic, và các nhà thờ của EinsiedelnSt. Gallen có phong cách Baroque.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu trượt tuyết trên sông băng tại Saas-Fee

Trượt tuyết, trượt ván trên tuyếtleo núi nằm trong số các môn thể thao phổ biến nhất tại Thụy Sỹ, đặc điểm tự nhiên của quốc gia này đặc biệt thích hợp cho các hoạt động như vậy.[183] Thể thao mùa đông được cư dân bản địa và du khách luyện tập kể từ nửa sau thế kỷ XIX khi phát minh xe trượt băng tại St. Moritz.[184] Các giải vô địch trượt tuyết thế giới đầu tiên được tổ chức tại Mürren (1931) và St. Moritz (1934). St. Moritz còn từng đăng cai Thế vận hội Mùa đông lần thứ 2 vào năm 1928lần thứ năm vào năm 1948.

Các môn thể thao được theo dõi nhiều nhất tại Thụy Sỹ là bóng đá, khúc côn cầu trên băng, trượt tuyết đổ đèo, vật dân tộc "Schwingen", và quần vợt.[185]

Trụ sở của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) và Liên đoàn khúc côn cầu trên băng thế giới (IIHF) đặt tại Zürich. Trên thực tế trụ sở của nhiều liên đoàn thể thao quốc tế khác cũng nằm tại Thụy Sỹ, như Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC), Bảo tàng Olympic và Tòa Trọng tài Thể thao (CAS) của IOC đặt tại Lausanne.

Thụy Sỹ từng đăng cai Giải bóng đá vô địch thế giới 1954, và cùng với Áo đăng cai Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008. Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sỹ (Swiss Super League) là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp cao nhất của quốc gia. Sân bóng đá cao nhất châu Âu với độ cao 2.000 mét (6.600 ft) trên mực nước biển nằm tại Thụy Sỹ và mang tên Sân vận động Ottmar Hitzfeld.[186]

Nhiều người Thụy Sỹ theo dõi khúc côn cầu trên băng và ủng hộ một trong 12 câu lạc bộ tại Giải hạng A, là giải đông đảo nhất tại châu Âu.[187] Năm 2009, Thụy Sỹ lần thứ 10 đăng cai Giải vô địch khúc côn cầu trên băng thế giới.[188] Do có nhiều hồ nên Thụy Sỹ là một nơi thu hút đối với môn thuyền buồm. Hồ lớn nhất Thụy Sỹ là hồ Genève là căn cứ của đội tuyển thuyền buồm Alinghi, là đội tuyển châu Âu đầu tiên giành chiến thắng Cúp châu Mỹ năm 2003 và bảo vệ được danh hiệu vào năm 2007. Quần vợt ngày càng trở nên phổ biến tại Thụy Sỹ, các vận động viên như Martina Hingis, Roger Federer, và Stanislas Wawrinka từng nhiều lần giành chiến thắng tại Grand Slam.

Đua ô tô và các sự kiện thể thao ô tô bị cấm chỉ tại Thụy Sỹ sau tai nạn Le Mans năm 1955 tại Pháp, ngoại lệ là các sự kiện như leo đồi tốc độ. Trong giai đoạn này, Thụy Sỹ vẫn sản sinh các tay đua thành công, và Thụy Sỹ cũng chiến thắng Giải vô địch thế giới thể thao ô tô công thức A1 mùa 2007-2008. Tháng 6 năm 2007, Hội đồng Quốc gia Thụy Sỹ bỏ phiếu bỏ lệnh cấm, song Hội đồng Các bang Thụy Sỹ bác bỏ thay đổi và lệnh cấm vẫn duy trì.[189][190]

Các môn thể thao truyền thống gồm có vật Thụy Sỹ hay "Schwingen". Đây là một truyền thống cổ xưa từ các bang miền trung nông thôn và được một số người nhìn nhận là môn thể thao quốc gia. Hornussen là môn thể thao bản địa Thụy Sỹ khác, giống như pha tạp giữa bóng chày và golf.[191] Steinstossen là biến thể Thụy Sỹ của môn đẩy đá, một cuộc tranh tài bằng cách ném một khối đá nặng. Nó vốn chỉ được tập luyện trong phạm vi cư dân vùng núi cao từ thời kỷ tiền sử, và được ghi nhận diễn ra tại Basel trong thế kỷ XIII. Đây là trung tâm của Lễ hội Unspunnenfest được tổ chức lần đầu vào năm 1805, với biểu tượng là hòn đá 83,5 kg mang tên Unspunnenstein.[192]

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]
Fondue là pho mát nấu chảy, bánh mì được nhúng vào

Ẩm thực Thụy Sỹ có nhiều khía cạnh, một số món như fondue, raclette hay rösti hiện diện trên toàn quốc, song mỗi bang phát triển nghệ thuật ẩm thực riêng của mình dựa theo khác biệt về khí hậungôn ngữ.[193] [194] Ẩm thực Thụy Sỹ truyền thống sử dụng các nguyên liệu tương tự như của các quốc gia châu Âu khác, cũng như các sản phẩm sữa và pho mát độc nhất như Gruyère hay Emmental, được sản xuất tại các thung lũng GruyèresEmmental. Có nhiều cơ sở hảo hạng, đặc biệt là tại miền tây Thụy Sỹ.[195][196]

Sôcôla được sản xuất tại Thụy Sỹ từ thế kỷ XVIII, song đạt được danh tiếng vào cuối thế kỷ XIX khi phát minh các công nghệ hiện đại khiến sản phẩm có chất lượng cao. Một bước đột phá là phát minh sôcôla sữa đặc vào năm 1875 bởi Daniel Peter. Người Thụy Sỹ bình quân tiêu thụ sôcôla lớn nhất thế giới.[197][198]

Đồ uống có cồn phổ biến nhất tại Thụy Sỹ là rượu vang. Thụy Sỹ nổi tiếng vì trồng nhiều loại nho do khác biệt lớn về điều kiện đất, không khí, độ caoánh sáng. Rượu vang Thụy Sỹ được sản xuất chủ yếu tại Valais, Vaud (Lavaux), Genève và Ticino, với đa số nhỏ là rượu vang trắng. Các ruộng nho được canh tác tại Thụy Sỹ từ thời La Mã, thậm chí các dấu tích nhất định có thể cho thấy nguồn gốc cổ xưa hơn. Các loại phổ biến nhất là Chasselas (gọi là Fendant tại Valais) và Pinot noir. Merlot là loại chủ yếu được sản xuất tại Ticino.[199][200]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Thành phố liên bang" về pháp lí, thủ đô trên thực tế. Do tính nhạy cảm chủ nghĩa liên bang lịch sử, pháp luật Thụy Sĩ không xác định một thủ đô chính thức; và một số tổ chức liên bang như các tòa án nằm tại các thành phố khác.
  2. ^ Mốc đầu tiên của lời tuyên thệ Rütlischwur là vào năm 1307 (Aegidius Tschudi ghi nhận vào thế kỉ XVI) và chỉ là một trong một số các hiệp ước trong giai đoạn này. Mốc hiến chương liên bang 1291 được lựa chọn vào năm 1891 nhằm kỷ niệm chính thức liên bang 600 năm.
  3. ^ Một tuyên ngôn trọng thể của Tagsatzung tuyên bố Hiến pháp Liên bang được thông qua vào ngày 12 tháng 9 năm 1848. Một nghị quyết của Tagsatzung vào ngày 14 tháng 9 năm 1848 xác định rằng quyền lực của các thể chế được cấp theo Hiệp định Liên bang 1815 kết thúc vào thời điểm hiến pháp của Hội đồng Liên bang có hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 1848.
  4. ^ Bern được gọi là "thành phố liên bang" (tiếng Đức: Bundesstadt, tiếng Pháp: Ville féderale, tiếng Ý: Capitale federale. Luật Thụy Sĩ không định rõ một thủ đô, song nghị viện và chính phủ liên bang đặt tại Bern, trong khi các tòa án liên bang nằm tại các thành phố khác.
  5. ^ Chính tả và phát âm tiếng Đức tiêu chuẩn Thụy Sĩ, Tên gọi tiếng Đức Thụy Sĩ đôi khi được viết là Schwyz hoặc Schwiiz [ˈʃʋiːt͡s]. Schwyz cũng là tên gọi tiếng Đức tiêu chuẩn (và quốc tế) của một bang tại Thụy Sĩ.
  6. ^ Phát âm thứ hai là cách phát âm phương ngữ Surselva thông dụng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Georg Kreis: Federal city bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ. Phiên bản vào ngày ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  2. ^ a b Holenstein, André (2012). “Die Hauptstadt existiert nicht” (PDF) (scientific article). UniPress – Forschung und Wissenschaft an der Universität Bern (bằng tiếng Đức) (152: Sonderfall Hauptstatdtregion). Berne: Department Communication, University of Berne: 16–19. doi:10.7892/boris.41280. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2015. Als 1848 ein politisch-administratives Zentrum für den neuen Bundesstaat zu bestimmen war, verzichteten die Verfassungsväter daraufpl, eine Hauptstadt der Schweiz zu bezopnleichnen und formulierten stattdessen in Artikel 108: «Alles, was sich auf den Sitz der Bundesbehörden bezieht, ist Gegenstand der Bundesgesetzgebung.» Die Bundesstadt ist also nicht mehr und nicht weniger als der Sitz der Bundesbehörden. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  3. ^ Andreas Kley: Federal constitution bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ. Phiên bản vào ngày ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  4. ^ Jacqueline Kucera, Athena Krummenacher biên tập (ngày 22 tháng 11 năm 2016). Switzerland's population 2015 (PDF) (official report). Swiss Statistics. Neuchâtel, Switzerland: Swiss Federal Statistical Office (FSO), Swiss Confederation. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016.
  5. ^ a b c d “5. Report for Selected Countries and Subjects: Switzerland”. Washington, DC, U.S.: International Monetary Fund. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016.
  6. ^ “Gini coefficient of equivalised disposable income - EU-SILC survey”. ec.europa.eu. Eurostat. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2019.
  7. ^ “Chỉ số phát triển con người 2018”. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc. 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2018. Truy cập 14 tháng 9 năm 2018.
  8. ^ “Về việc tranh cãi giữa từ "sĩ "và "sỹ". Thực tế từ đúng là "sĩ".
  9. ^ “Tư liệu của Đảng về tên chính thức của Thụy Sĩ”.
  10. ^ Thomas Fleiner, Alexander Misic, Nicole Töpperwien (ngày 5 tháng 8 năm 2005). Swiss Constitutional Law. Kluwer Law International. tr. 28. ISBN 978-9041124043.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Prof. Dr. Adrian Vatter (2014). Das politische System der Schweiz [The Political System of Switzerland]. Studienkurs Politikwissenschaft (bằng tiếng Đức). Baden-Baden: UTB Verlag. ISBN 978-3-8252-4011-0. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  12. ^ a b Zimmer, Oliver (ngày 12 tháng 1 năm 2004) [originally published: October 1998]. “In Search of Natural Identity: Alpine Landscape and the Reconstruction of the Swiss Nation”. Comparative Studies in Society and History. London: Society for Comparative Study of Society and History. 40 (4): 637–665. doi:10.1017/S0010417598001686 – qua Cambridge Journals.
  13. ^ Josef Lang (ngày 14 tháng 12 năm 2015). “Die Alpen als Ideologie”. Tages-Anzeiger (bằng tiếng Đức). Zürich, Switzerland. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  14. ^ Subir Ghosh (ngày 9 tháng 10 năm 2010). “US is still by far the richest country, China fastest growing”. Digital Journal. Canada. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ Simon Bowers (ngày 19 tháng 10 năm 2011). “Franc's rise puts Swiss top of rich list”. The Guardian. London, UK. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  16. ^ “Swiss and German cities dominate ranking of best cities in the world”. City Mayors. London, UK: Mercer Consulting. ngày 28 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010.
  17. ^ Room, Adrian (2003) Placenames of the World. London: MacFarland and Co., ISBN 0-7864-1814-1.
  18. ^ Switzerland, the Catholic Encyclopedia newadvent.org. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010
  19. ^ On Schwyzers, Swiss and Helvetians Lưu trữ 2010-08-05 tại Wayback Machine, Federal Department of Home Affairs, admin.ch.
  20. ^ Züritütsch, Schweizerdeutsch (p. 2) Lưu trữ 2016-01-12 tại Wayback Machine schweizerdeutsch.ch. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010
  21. ^ Kanton Schwyz: Kurzer historischer Überblick Lưu trữ 2016-08-15 tại Wayback Machine sz.ch. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010
  22. ^ Marco Marcacci, Confederatio helvetica (2002), Historical Lexicon of Switzerland.
  23. ^ Helvetia bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ.
  24. ^ Feng-fan Hsieh [謝豐帆 Tạ Phong Phàm]. “Transcribing foreign names”, trang 8 và 9.
  25. ^ a b c d e f g h History. swissworld.org. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2009
  26. ^ Switzerland's Roman heritage comes to life swissinfo.ch
  27. ^ a b c d Switzerland history Nationsencyclopedia.com. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2009
  28. ^ a b c d e f g History of Switzerland Nationsonline.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2009
  29. ^ Schwabe & Co.: Geschichte der Schweiz und der Schweizer, Schwabe & Co 1986/2004. ISBN 3-7965-2067-7 (tiếng Đức)
  30. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p “A Brief Survey of Swiss History”. admin.ch. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2009.
  31. ^ Swiss border ("Les principales rectifications postérieures à 1815 concernent la vallée des Dappes en 1862 (frontière Vaud-France, env. 7,5 km2), la valle di Lei en 1952 (Grisons-Italie, 0,45 km2), l'Ellhorn en 1955 (colline revendiquée par la Suisse pour des raisons militaires, Grisons-Liechtenstein) et l'enclave allemande du Verenahof dans le canton de Schaffhouse en 1967.") bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ.
  32. ^ Tunnel Vision: Switzerland's AlpTransit Gotthard Tunnel Lưu trữ 2010-08-13 tại Wayback Machine inboundlogistics.com. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2010
  33. ^ Histoire de la Suisse, Éditions Fragnière, Fribourg, Switzerland
  34. ^ Lenin and the Swiss non-revolution swissinfo.ch. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010
  35. ^ Urner, Klaus (2001) Let's Swallow Switzerland, Lexington Books, pp. 4, 7, ISBN 0739102559.
  36. ^ a b Book review: Target Switzerland: Swiss Armed Neutrality in World War II, Halbrook, Stephen P. Lưu trữ 2009-12-01 tại Wayback Machine stonebooks.com. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  37. ^ Asylum bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ.
  38. ^ Switzerland, National Socialism and the Second World War. Final Report of the Independent Commission of Experts Switzerland, Pendo Verlag GmbH, Zürich 2002, ISBN 3-85842-603-2, p. 498.
  39. ^ Switzerland, National Socialism and the Second World War. Final Report of the Independent Commission of Experts Switzerland, Pendo Verlag GmbH, Zürich 2002, ISBN 3-85842-603-2, p. 521.
  40. ^ 7.4 States Formerly Possessing or Pursuing Nuclear Weapons Retrieved ngày 6 tháng 3 năm 2014
  41. ^ Westberg, Gunnar (ngày 9 tháng 10 năm 2010). “Swiss Nuclear Bomb”. International Physicians for the Prevention of Nuclear War. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
  42. ^ a b c d Country profile: Switzerland. UK Foreign and Commonwealth Office (ngày 29 tháng 10 năm 2012).
  43. ^ a b c d e f g “Swiss Geography”. swissworld.org. Presence Switzerland, Federal Department of Foreign Affairs. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  44. ^ “map.search.ch” (online map). Map of Switzerland with route planner. TomTom, swisstopo, osm thiết kế bản đồ. search.ch / Tamedia. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2015.
  45. ^ “STAT-TAB: Die interaktive Statistikdatenbank” (bằng tiếng Đức và French). Neuchâtel, Switzerland: Swiss Federal Statistical Office. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  46. ^ “Map Gallery Switzerland: Physical Geography of Switzerland”. Neuchâtel, Switzerland: Swiss Federal Statistical Office. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  47. ^ a b “Swiss Climate”. Swiss Federal Office of Meteorology and Climatology MeteoSwiss, Swiss Federal Department of Home Affairs FDHA, Swiss Confederation. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  48. ^ “Swiss climate maps”. Swiss Federal Office of Meteorology and Climatology MeteoSwiss, Swiss Federal Department of Home Affairs FDHA, Swiss Confederation. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  49. ^ “Swiss Alps Jungfrau-Aletsch”. UNESCO World Heritage Centre. 2007. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2015.
  50. ^ “Environment: Impact of climate change”. swissworld.org. Presence Switzerland, Federal Department of Foreign Affairs. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  51. ^ “2014 Environmental Performance Index”. epi.yale.edu/epi. Yale Center for Environmental Law & Policy, Yale University, and Center for International Earth Science Information Network, Columbia University. 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  52. ^ a b c “Switzerland's political system”. Berne, Switzerland: The Federal Council. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2016.
  53. ^ “Federalism”. Berne, Switzerland: The Federal Council. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2016.
  54. ^ “Die Legislative ist ein Miliz-Parlament – SWI swissinfo.ch”. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2016.
  55. ^ “The federal courts”. Berne, Switzerland: The Federal Council. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2016.
  56. ^ a b Peter Knoepfel, Yannis Papadopoulos, Pascal Sciarini, Adrian Vatter, Silja Häusermann biên tập (2014). Handbuch der Schweizer Politik – Manuel de la politique suisse (bằng tiếng Đức và Pháp) (ấn bản thứ 5). Zürich, Switzerland: Verlag Neue Zürcher Zeitung, NZZ libro. ISBN 978-3-03823-866-9. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  57. ^ Andreas Gross: Popular rights bằng các tiếng Đức, Pháp, và Ý trong quyển Từ điển lịch sử Thụy Sĩ. Phiên bản vào ngày ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  58. ^ Kaufmann, Bruno (ngày 18 tháng 5 năm 2007). “How direct democracy makes Switzerland a better place”. The Telegraph. London, UK. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
  59. ^ Lý do Thụy Sĩ không có thủ đô chính thức, VnExpress, 20/12/2019
  60. ^ a b “Addresses of administrative authorities”. Berne, Switzerland: ch.ch, A service of the Confederation, cantons and communes. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2016.
  61. ^ Enclaves of the world Lưu trữ 2009-09-18 tại Wayback Machine enclaves.webs.com. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2009
  62. ^ a b c d e Neutrality and isolationism swissworld.org, Retrieved on ngày 23 tháng 6 năm 2009
  63. ^ “Switzerland – Country history and economic development”. nationsencyclopedia.com. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2009.
  64. ^ “Schengen Visa Countries List – Schengen Area”. Schengen VISA Information (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  65. ^ Henri Dunant, the Nobel Peace Prize 1901 nobelprize.org. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  66. ^ Sports directory Lưu trữ 2010-05-03 tại Wayback Machine if-sportsguide.ch. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010
  67. ^ An initiative to abandon this practice has been launched on ngày 4 tháng 9 năm 2007, and supported by GSoA, the Green Party of Switzerland and the Social Democratic Party of Switzerland as well as other organisations which are listed at Tragende und unterstützende Organisationen. schutz-vor-waffengewalt.ch
  68. ^ “Militärdiestpflicht” (bằng tiếng Đức, Pháp, và Ý). Swiss Federal Department of Defence, Civil Protection and Sport. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  69. ^ “Zwei Drittel der Rekruten diensttauglich (Schweiz, NZZ Online)”. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2009.
  70. ^ Die Armee in Zahlen – Truppenbestände. www.vbs.admin.ch (in German)
  71. ^ As context, according to Edwin Reischauer, "To be neutral you must be ready to be highly militarized, like Switzerland or Sweden." – see Chapin, Emerson. "Edwin Reischauer, Diplomat and Scholar, Dies at 79," New York Times. ngày 2 tháng 9 năm 1990.
  72. ^ Volksabstimmung vom 26. November 1989 Lưu trữ 2009-11-30 tại Wayback Machine admin.ch. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010
  73. ^ L'évolution de la politique de sécurité de la Suisse ("Evolution of Swiss Security Policies") by Manfred Rôsch, NATO.int
  74. ^ Volksinitiative 'für eine glaubwürdige Sicherheitspolitik und eine Schweiz ohne Armee (tiếng Đức) Lưu trữ 2010-08-15 tại Wayback Machine admin.ch. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2009
  75. ^ “SR 514.101 Verordnung des VBS über die persönliche Ausrüstung der Armeeangehörigen (VPAA-VBS) vom 9. Dezember 2003 (Stand am 1. Januar 2015): Art. 7 Taschenmunition Ziff 1” (official site) (bằng tiếng Đức, Pháp, và Ý). Berne, Switzerland: The Swiss Federal Council. ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  76. ^ “Soldiers can keep guns at home but not ammo”. Swissinfo. ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016.
  77. ^ “Watches”. Swissworld.org. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2012.
  78. ^ Credit Suisse: Global wealth has soared 14% since 2010 to USD 231 trillion with the strongest growth in emerging markets. Credit Suisse.
  79. ^ Table 2: Top 10 countries with the highest average wealth per adult in 2011 Lưu trữ 2012-11-14 tại Wayback Machine. Credit Suisse.
  80. ^ Credit Suisse Research Institute (ngày 9 tháng 10 năm 2013). “Global Wealth Reaches New All-Time High”. The Financialist. Credit Suisse. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2013.
  81. ^ 2012 Index of Economic Freedom: Switzerland heritage.org. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011
  82. ^ “CIA – The World Factbook”. Cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013.
  83. ^ “Global Competitiveness Report 2016-2017” (PDF). World Economic Forum.
  84. ^ The Innovation Union's performance scoreboard for Research and Innovation 2010. Maastricht Economic and social Research and training centre on Innovation and Technology, ngày 1 tháng 2 năm 2011.
  85. ^ “European Innovation Scoreboard – European Commission”. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2016.
  86. ^ a b Western Europe. Routledge. 2002. tr. 645–646. ISBN 1-85743-152-9.
  87. ^ Comparative Agendas accessed ngày 12 tháng 7 năm 2013
  88. ^ The most powerful cities in the world citymayors.com. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012
  89. ^ “Six Swiss companies make European Top 100”. swissinfo.ch. ngày 18 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
  90. ^ a b c d e Swiss Statistical Yearbook 2008 by Swiss Federal Statistical Office
  91. ^ “Work and income”. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  92. ^ “Trade Unions – Switzerland”. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
  93. ^ Swiss jobless reach 12-year high – a mere 4.4 pct. Associated Press (ngày 8 tháng 1 năm 2010).
  94. ^ “The World Factbook”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  95. ^ “Mehr Arbeitslose in der Schweiz – das ist nicht überraschend – News – SRF”. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2016.
  96. ^ “The Conference Board Total Economy Database – Output, Labor, and Labor Productivity, 1950 – 2012” (Excel). The Conference Board. tháng 1 năm 2013. GDP per Hour, in 2012 EKS$.
  97. ^ a b Policy Brief: Economic Survey of Switzerland, 2007 Lưu trữ 2008-06-24 tại Wayback Machine (326 KiB), OECD Lưu trữ 2015-10-07 tại Wayback Machine[liên kết hỏng]
  98. ^ Economic Policy Reforms: Going for Growth 2008 – Switzerland Country Note. Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD), 2008, ISBN 978-92-64-04284-1
  99. ^ Federal Department of Finance. (2012/1). p. 82.
  100. ^ “Archived copy” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  101. ^ Domestic purchasing power of wages (68 KiB) [liên kết hỏng]
  102. ^ Switzerland tops in buying power. Swiss News (ngày 1 tháng 5 năm 2005).
  103. ^ Want the world's best wages? Move to Switzerland reuters.com. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2010.
  104. ^ a b c d The Swiss education system swissworld.org, Retrieved on ngày 23 tháng 6 năm 2009
  105. ^ Academic Ranking of World Universities 2015 Lưu trữ 2015-10-30 tại Wayback Machine Academic Ranking of World Universities. ShanghaiRanking Consultancy. 2015. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016
  106. ^ “Shanghai Ranking 2008 Top 100 world universities in Natural Sciences and Mathematics”. Ed.sjtu.edu.cn. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2010.
  107. ^ Kim Thomas (ngày 1 tháng 10 năm 2014). “Why does Switzerland do so well in university rankings?”. The Guardian. London. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  108. ^ Ranking by Top Universities
  109. ^ Financial Time Executive Education Rankings – Open Programs – 2015 Retrieved ngày 8 tháng 7 năm 2015
  110. ^ “Chart C3.1. Percentage of foreign students in tertiary education (1998, 2003) in Education at a Glance, OECD indicators 2005 – Executive Summary” (PDF). www.oecd.org/edu/eag2005 (Study). OECD. 2005. tr. 44. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.
  111. ^ Education at Glance 2005 Lưu trữ 2013-07-23 tại Wayback Machine by the OECD: Percentage of foreign students in tertiary education. [liên kết hỏng]
  112. ^ “Graduate Institute of International Studies Geneva Overview | Study Abroad Programs”. Studyihub.com. ngày 13 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013.
  113. ^ “e-Perspectives, Kendra Magraw ('10) Accepted at Geneva's Prestigious IHEID – U of MN Law School”. Law.umn.edu. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013.
  114. ^ Snygg, John (2011). A New Approach to Differential Geometry Using Clifford's Geometric Algebra. Springer. tr. 38. ISBN 978-0-8176-8282-8.
  115. ^ Mueller, Roland. “Swiss Nobel Prize Winners / Nobel Prize Winners in Switzerland”. Muellerscience.com. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2011.
  116. ^ “Mueller Science – Spezialitaeten: Schweizer Nobelpreisträger”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2008.
  117. ^ info.cern.ch Retrieved on ngày 30 tháng 4 năm 2010
  118. ^ “CERN - the largest laboratory in the world www.swissworld.org”. Swissworld.org. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010.
  119. ^ Oerlikon Space at a Glance. www.oerlikon.com
  120. ^ “5 Years on Mars”. Maxonmotor.ch. ngày 4 tháng 1 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  121. ^ “Vorlage Nr. 502: Übersicht: Volksinitiative 'Moratorium Plus – Für die Verlängerung des Atomkraftwerk-Baustopps und die Begrenzung des Atomrisikos (MoratoriumPlus)' (official site) (bằng tiếng Đức, Pháp, và Ý). Berne, Switzerland: Swiss Federal Chancellery. ngày 18 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  122. ^ “Vorlage Nr. 501: Übersicht:Volksinitiative 'Strom ohne Atom – Für eine Energiewende und schrittweise Stilllegung der Atomkraftwerke (Strom ohne Atom)' (official site) (bằng tiếng Đức, Pháp, và Ý). Berne, Switzerland: Swiss Federal Chancellery. ngày 18 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  123. ^ Martin Enserink (ngày 25 tháng 5 năm 2011). “Switzerland to Phase Out Nuclear Energy; E.U. Strikes Deal on 'Stress Tests'. Science. Washington DC, U.S.: American Association for the Advancement of Science. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  124. ^ Urs Geiser. “Swiss nuclear plants to remain on grid”. SWI swissinfo.ch – the international service of the Swiss Broadcasting Corporation (SBC). Zurich, Switzerland: Swiss Broadcasting Corporation (SBC). Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
  125. ^ “Federal government energy research”. ngày 16 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  126. ^ a b “Öffentlicher Verkehr – Zeitreihen” (XLS) (official site). Neuchâtel, Switzerland: Swiss Federal Statistical Office (FSO). tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  127. ^ Rhaetian Railway in the Albula / Bernina Landscapes unesco.org
  128. ^ “Switzerland”. Xinhua. ngày 1 tháng 4 năm 2003.
  129. ^ anna.aero European Airport Traffic Trends accessed ngày 12 tháng 7 năm 2013
  130. ^ Geneva Airport statistics accessed ngày 12 tháng 7 năm 2013
  131. ^ Swiss sit atop ranking of greenest nations msnbc.com. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  132. ^ Party grouping unfccc.int. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  133. ^ W3design. “Swiss Recycling”. Swissrecycling.ch. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010.
  134. ^ “2014 Global Green Economy Index” (PDF). Dual Citizen LLC. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2014.
  135. ^ “Switzerland”, The World Factbook (bằng tiếng Anh), Central Intelligence Agency, 6 tháng 2 năm 2023, truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023
  136. ^ “Swiss population to grow 12.5 per cent by 2035”. SWI. SWI. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2016.
  137. ^ “Population – Key figures, 2012”. www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Anh, German, French, và Italian). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office, 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  138. ^ a b “Migration and integration – Data, indicators, Nationality, Foreign permanent resident population by nationality, 2012”. www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Anh, German, French, và Italian). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office, 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  139. ^ “Migration and integration – Data, indicators, Nationality, Population with an immigration background, Permanent resident population aged 15 or over, by migration status, 2nd quarter 2012”. www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Anh, German, French, và Italian). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office, 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  140. ^ Definitive report on racism in Switzerland by UN expert humanrights.ch
  141. ^ a b “Languages” (bằng tiếng Đức, Pháp, và Ý). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office. 2016. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016.
  142. ^ “The Parliamentary Services”. Berne, Switzerland: The Federal Assembly. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2015.
  143. ^ a b “Dialekte” (bằng tiếng Đức). Berne, Switzerland: Historisches Lexikon der Schweiz. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2015.
  144. ^ “Multilingualism”. Berne, Switzerland: Presence Switzerland, Federal Department of Foreign Affairs FDFA, The Federal Administration. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2015.
  145. ^ “Patients are very satisfied with "Hospital Switzerland" [Patienten mit «Spital Schweiz» sehr zufrieden] (bằng tiếng Đức). Berne, Switzerland: ANQ Nationaler Verein für Qualitätsentwicklung in Spitälern und Kliniken. ngày 5 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2015. Die Antworten erreichten auf einer Skala von 1 bis 10 durchschnittliche Werte zwischen 9 und 9,4.
  146. ^ “Zufriedenheit durch Vertrauen: Kurzbericht zur grossen Ärztestudie” (PDF) (bằng tiếng Đức). Berne, Switzerland: gfs.bern, 20 Minuten Online, comparis.ch. ngày 10 tháng 10 năm 2012. tr. 9. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015. Mehrheitliche 91 Prozent sind mit "ihrem" Hausarzt mehr oder weniger dezidiert zufrieden.
  147. ^ Rico Kütscher (ngày 28 tháng 6 năm 2014). “Kundenzufriedenheit: Krankenkassen sollten Effizienz und Image verbessern”. Neue Zürcher Zeitung, NZZ (bằng tiếng Đức). Zürich, Switzerland. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2015. Wie es um die Kundenzufriedenheit in der Branche generell steht, zeigt eine 2013 im Auftrag von «K-Tipp» durchgeführte repräsentative Umfrage unter Versicherten, die in den vergangenen zwei Jahren Leistungen von ihrer Krankenkasse in Anspruch genommen haben. Beim Testsieger Concordia waren rund 73% der Versicherten «sehr zufrieden». Bei grossen Krankenkassen wie der CSS und Helsana betrug dieser Anteil 70% beziehungsweise 63%. Groupe Mutuel erreichte rund 50%, und die Billigkasse Assura kam auf 44%. Dies illustriert, dass die Zufriedenheit durchaus hoch ist – dass es aber auch Potenzial für Effizienzsteigerungen bei Krankenkassen gibt.
  148. ^ “Components of population change – Data, indicators: Deaths, mortality and life expectancy”. Swiss Federal Statistical Office, Neuchâtel 2013. 2012. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2013.
  149. ^ “The Human Capital Report, Insight Report”. World Economic Forum. 2013. tr. 480, 12, 14, 478–481. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2013.
  150. ^ “OECD.StatExtracts, Health, Health Status, Life expectancy, Total population at birth, 2011” (Online Statistics). stats.oecd.org/. OECD's iLibrary. 2013. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
  151. ^ “Statistical Data on Health and Accident Insurance”. Swiss Federal Office of Public Health (FOPH) 2012 Edition (Flyer, A4, 2 pages). ngày 19 tháng 12 năm 2012. tr. 2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2013.
  152. ^ a b OECD and WHO survey of Switzerland's health system oecd.org. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2009
  153. ^ Where people live swissworld.org. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009
  154. ^ a b c d e Städte und Agglomerationen unter der Lupe Lưu trữ 2010-08-15 tại Wayback Machine admin.ch. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009
  155. ^ Swiss countryside succumbs to urban sprawl Lưu trữ 2012-03-16 tại Wayback Machine swissinfo.ch. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009
  156. ^ Enquête représentative sur l'urbanisation de la Suisse (Pronatura) Lưu trữ 2011-04-30 tại Wayback Machine gfs-zh.ch. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009
  157. ^ Swiss plateau swissworld.org. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2009
  158. ^ Quality of living mercer.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009
  159. ^ “Erhebung zur Sprache, Religion und Kultur 2014: Religiöse und spirituelle Praktiken und Glaubensformen in der Schweiz” (PDF). www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Đức). Neuchâtel; Switzerland: Swiss Federal Statistical Office. 2016. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
  160. ^ “Die Kirchensteuern August 2013”. www.estv.admin.ch (Document) (bằng tiếng Đức, French, và Italian). Berne: Schweizerische Steuerkonferenz SSK, Swiss Federal Tax Administration FTA, Federal Depertment of Finance FDF. 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  161. ^ a b c “Ständige Wohnbevölkerung ab 15 Jahren nach Religions- / Konfessionszugehörigkeit, 2011–2013” (XLS). www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Đức). Neuchâtel; Switzerland: Swiss Federal Statistical Office. 2015. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015.
  162. ^ “Wohnbevölkerung nach Religionszugehörigkeit 1910–2013” (XLS). www.bfs.admin.ch (bằng tiếng Đức). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office. 2015. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2015.
  163. ^ “Evangelical Churches Growing Fast in Switzerland”. Christian Post. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2015.
  164. ^ “Gallup International Religiosity Index” (PDF). Washington Post. WIN-Gallup International. tháng 4 năm 2015.
  165. ^ Bovay, Claude; Broquet, Raphaël (ngày 30 tháng 9 năm 2005). Eidgenössische Volkszählung 2000: Religionslandschaft in der Schweiz (PDF) (Publication) (bằng tiếng Đức, French, và Italian). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office, December 2004. tr. 122–129. ISBN 3-303-16073-2. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  166. ^ Volksabstimmung vom 2. März 1980 admin.ch. Truy cập 2010
  167. ^ “Ständige Wohnbevölkerung ab 15 Jahren nach Religions- / Konfessionszugehörigkeit, 2012” (XLS). www.bfs.admin.ch (Statistics) (bằng tiếng Đức, French, và Italian). Neuchâtel: Swiss Federal Statistical Office. 2014. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  168. ^ Swiss culture swissworld.org. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009
  169. ^ European Year of Intercultural Dialogue[liên kết hỏng] Dr Michael Reiterer. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009
  170. ^ Switzerland: culture traveldocs.com. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009
  171. ^ Museums swissworld.org. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  172. ^ Lucerne Festival nytimes.com. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010
  173. ^ Montreux Jazz Festival Retrieved on ngày 26 tháng 8 năm 2013
  174. ^ Film festivals swissworld.org. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  175. ^ Mountains and hedgehogs. swissworld.org. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009
  176. ^ Folk music swissworld.org. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009
  177. ^ Culture of Switzerland Lưu trữ 2009-01-30 tại Wayback Machine europe-cities.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009
  178. ^ Art in literature Lưu trữ 2021-10-15 tại Wayback Machine cp-pc.ca. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009
  179. ^ Từ Encyclopædia Britannica phiên bản thứ 11, Swiss literature
  180. ^ a b c Literature swissworld.org, Retrieved on ngày 23 tháng 6 năm 2009
  181. ^ a b Press and the media Lưu trữ 2008-12-04 tại Wayback Machine ch.ch. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009
  182. ^ a b c d Press in Switzerland pressreference.com. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009
  183. ^ Sport in Switzerland Lưu trữ 2010-09-16 tại Wayback Machine europe-cities.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009
  184. ^ A brief history of bobsleigh Lưu trữ 2011-05-13 tại Wayback Machine fibt.com. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2009
  185. ^ “Meist gesehene Sendungen SRF seit 2011” (PDF) (bằng tiếng Đức). SRF. ngày 1 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2016.
  186. ^ “The world's most amazing football pitches – in pictures”. The Guardian. Guardian News and Media Limited. ngày 8 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2014.
  187. ^ Geering. “Hockeyarenas.net”. Hockeyarenas.net. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011.
  188. ^ “IIHF World Championships 2009 official website”. Iihf.com. ngày 10 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010.
  189. ^ Wikinews:Switzerland lifts ban on motor racing
  190. ^ “Swiss vote against racing”. Grandprix.com. Inside F1, Inc. ngày 10 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
  191. ^ Hornussen swissroots.org. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010
  192. ^ Tradition and history interlaken.ch. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010
  193. ^ Zürcher Geschnetzeltes Zürcher Geschnetzeltes, engl.: sliced meat Zürich style
  194. ^ Flavors of Switzerland Lưu trữ 2009-07-20 tại Wayback Machine theworldwidegourmet.com. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009
  195. ^ Michelin Guide Switzerland 2010 attests to the high quality of gourmet cooking with one new 2 star restaurant and 8 new one star Lưu trữ 2011-04-27 tại Wayback Machine Press information, Michelin. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009
  196. ^ Swiss region serves up food with star power usatoday.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009
  197. ^ Chocolate swissworld.org. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009
  198. ^ Swiss Chocolate germanworldonline.com (ngày 4 tháng 12 năm 2009). Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010
  199. ^ Wine-producing Switzerland in short Lưu trữ 2009-04-09 tại Wayback Machine swisswine.ch. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009
  200. ^ Table 38. Top wine consuming nations per capita, 2006 Lưu trữ 2010-08-18 tại Wayback Machine winebiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Church, Clive H. (2004) The Politics and Government of Switzerland. Palgrave Macmillan. ISBN 0-333-69277-2.
  • Dalton, O.M. (1927) The History of the Franks, by Gregory of Tours. Oxford: The Clarendon Press.
  • Fahrni, Dieter. (2003) An Outline History of Switzerland. From the Origins to the Present Day. 8th enlarged edition. Pro Helvetia, Zürich. ISBN 3-908102-61-8
  • Historical Dictionary of Switzerland (2002–). Published electronically and in print simultaneously in three national languages of Switzerland.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “note”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="note"/> tương ứng