Bước tới nội dung

Aphareus furca

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Aphareus furca
A. flavivultus (= A. furca)
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Aphareus
Loài (species)A. furca
Danh pháp hai phần
Aphareus furca
(Lacépède, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Labrus furca Lacepède, 1801
    • Caranxomorus sacrestinus Lacepède, 1803
    • Aphareus caerulescens Cuvier, 1830
    • Aphareus flavivultus Jenkins, 1901

Aphareus furca là một loài cá biển thuộc chi Aphareus trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh từ định danh furca trong tiếng Latinh có nghĩa là “cái nĩa”, hàm ý đề cập đến vây đuôi xẻ sâu của loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. furca có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaiiquần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-CalédonieTonga; xa hơn đến rìa Đông Thái Bình Dươngđảo Cocos.[3] Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[4]

A. furca sống gần các rạn san hô gần bờ và trong vùng nước trong của đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 122 m,[5] nhưng cũng có thể lên đến 302 m.[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở A. furca là 70 cm, nhưng thường bắt gặp với kích thước khoảng 25 cm.[5]

Loài này có kiểu hình đa dạng. Đầu và thân có thể là màu xanh lam óng, vây lưng và vây hậu môn màu vàng, còn các vây khác có màu trắng, vàng đến xám đậm. Nhiều cá thể có lưng và thân trên màu nâu tía, hai bên thân màu xanh xám, đầu và thân dưới ánh bạc, rìa nắp mang có viền đen, các vây màu trắng đến vàng nâu. Vài cá thể còn được ghi nhận là có màu vàng tươi trên đầu, có thể đây là những con đực đang trong mùa giao phối.[6]

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 71–74.[6]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn chủ yếu của A. furca là cá nhỏ, nhưng cũng ăn cả động vật giáp xác. Chúng sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm nhỏ, có tính tò mò và dễ tiếp cận.[5]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

A. furca thường được bán tươi sống ở các chợ cá. A. furca cũng là một loài cá câu thể thao quan trọng ở Đông Phi. Sự suy giảm quần thể cục bộ đối với loài này đã được phát hiện ở FijiPhilippines.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Russell, B.; Smith-Vaniz, W. F.; Lawrence, A.; Carpenter, K. E.; Myers, R. & Thaman, R. (2016). Aphareus furca. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T194289A2309864. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194289A2309864.en. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Labrus furca. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  4. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  5. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Aphareus furca trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  6. ^ a b William D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2854. ISBN 92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)