Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rebel Heart”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Liên kết định hướng
Dòng 31: Dòng 31:
'''''Rebel Heart''''' là [[album phòng thu]] thứ mười ba của nữ [[ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát]] người Mỹ [[Madonna]], được [[Interscope Records]] phát hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2015. Bà đã thực hiện album này trong suốt năm 2014, đồng sáng tác và đồng sản xuất với nhiều nhạc sĩ khác nhau, bao gồm [[Diplo]], [[Avicii]] và [[Kanye West]]. Album còn có sự góp giọng của võ sĩ quyền anh [[Mike Tyson]] và các rapper [[Nicki Minaj]], [[Nas]] và [[Chance the Rapper]].
'''''Rebel Heart''''' là [[album phòng thu]] thứ mười ba của nữ [[ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát]] người Mỹ [[Madonna]], được [[Interscope Records]] phát hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2015. Bà đã thực hiện album này trong suốt năm 2014, đồng sáng tác và đồng sản xuất với nhiều nhạc sĩ khác nhau, bao gồm [[Diplo]], [[Avicii]] và [[Kanye West]]. Album còn có sự góp giọng của võ sĩ quyền anh [[Mike Tyson]] và các rapper [[Nicki Minaj]], [[Nas]] và [[Chance the Rapper]].


Về mặt chủ đề, ''Rebel Heart'' đại diện cho hai khía cạnh lãng mạn và nổi loạn của nữ ca sĩ; những ý tưởng này được phát triển một cách tự nhiên trong quá trình sáng tác và thu âm. Về mặt âm nhạc, đây là một album nhạc pop kết hợp nhiều thể loại như [[Nhạc house|house]] [[Âm nhạc thập niên 1990|thập niên 1990]], [[Nhạc trap (EDM)|trap]] và [[reggae]], đồng thời sử dụng cả [[guitar acoustic]] và [[Nhạc Phúc âm|dàn hợp xướng phúc âm]]. Một số bài hát mang tính tự truyện, trong khi một số khác nói về tình yêu và sự nghiệp của Madonna. Khác với những dự án trước, việc hợp tác với nhiều cộng sự đã gây ra khó khăn cho Madonna trong việc duy trì sự thống nhất về âm hưởng và định hướng sáng tạo cho album.
==Diễn biến thương mại==
Theo Andrew Hampp của tạp chí ''[[Billboard]]'', phiên bản đặt trước có doanh số rất khả quan sau khi được phát hành trên cửa hàng trực tiếp iTunes. Tại Hoa Kỳ, 3 trong số 6 bài hát của phiên bản đặt trước ra mắt trên bảng xếp hạng ''Billboard'' [[Dance/Electronic Songs]] vào ấn phẩm phát hành ngày 3 tháng 1 năm 2015—"Living for Love", "Bitch I'm Madonna", và "Unapologetic Bitch"—mặc dù những bài hát này chỉ có sẵn trong vòng 2 ngày.<ref name="insidebb">{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/news/6436370/madonna-rebel-heart-leak-inside-story|title=The Inside Story of How Madonna Turned Her 'Rebel Heart' Leak Into a Global Hit|last=Hampp|first=Andrew|date=ngày 9 tháng 1 năm 2015|magazine=Billboard|access-date =ngày 9 tháng 1 năm 2015}}</ref> Doanh số của 6 bài hát này đã đạt 146.000&nbsp; lượt [[Tải nhạc xuống|tải kĩ thuật số]], theo [[Nielsen SoundScan]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.nytimes.crom/2015/01/22/arts/music/when-music-is-purloined-artists-try-to-exploit-opportunity.html?_r=0|title=When Digital Thieves Strike, Artists Act Quickly to Seize Opportunity|last=Coscarelli|first=Joe|date=ngày 23 tháng 1 năm 2015|access-date =ngày 23 tháng 1 năm 2015|work=The New York Times}}{{Liên kết hỏng|date = ngày 26 tháng 3 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}</ref> Phiên bản đặt trước của album cũng bán được khoảng 50.000 đến 60.000 bản, theo các nhà phân tích ngành công nghiệp thu âm.<ref name="insidebb"/> ''Rebel Heart'' ra mắt tại vị trí á quân bảng xếp hạng [[Billboard 200|US ''Billboard'' 200]] với doanh số đạt 121.000 bản tính đến hết ngày 15 tháng 3 năm 2015; sau album nhạc phim của sê-ri phim ''Empire''.<ref name="'Empire,' Madonna and Luke Bryan Debut in Top Three on Billboard 200">{{Chú thích web|họ 1=Caulfield|tên 1=Keith|tiêu đề='Empire,' Madonna and Luke Bryan Debut in Top Three on Billboard 200|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6502454/empire-madonna-luke-bryan-top-three-billboard-200|website=billboard.com|nhà xuất bản=[[Prometheus Global Media]]|ngày truy cập = ngày 19 tháng 3 năm 2015 |ngôn ngữ=tiếng Anh|ngày tháng = ngày 18 tháng 3 năm 2015}}</ref> Mặc dù doanh số bán lẻ đứng nhất tuần với 116.000 bản (chiếm 96% tổng doanh số), ''Rebel Heart'' vẫn phải đứng sau album nhạc phim khi doanh số chia sẻ nhạc chỉ đạt khoảng từ 1.000 đến 4.000 lượt. Đây album thứ 21 của Madonna lọt vào top 10 của bảng xếp hạng này, nhưng cũng là album phòng thu đầu tiên không ra mắt tại vị trí quán quân kể từ sau album ''[[Ray of Light]]'' (1998). Điều này có thể do chuyến lưu diễn ''Rebel Heart'' có lượng khán giả đặt vé + mua album giảm hơn so với album trước, ''[[MDNA (album)|MDNA]]'' đến 10.000 bản; dẫn đến việc tổng doanh số của album trong tuần đầu thụt giảm hơn so với các album trước.<ref name="USdebut">{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6502441/empire-soundtrack-number-one-madonna-number-two|title='Empire' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart, Madonna Arrives at No. 2|last=Caulfield|first=Keith|date=ngày 17 tháng 3 năm 2015|access-date =ngày 17 tháng 3 năm 2015|work=Billboard}}</ref> Tại Canada, ''Rebel Heart'' ra mắt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng [[Canadian Albums Chart]] doanh số đạt 18.000 bản trong tuần đầu phát hành.<ref name="canada">{{Chú thích web|url=https://dl.dropboxusercontent.com/u/67270545/Canadian%20Newsletters/2015/nielsen_music_canadian_update_Mar18_2015.pdf|tiêu đề=Madonna Scores Number One Top Album Debut|định dạng=PDF|ngày tháng=ngày 18 tháng 3 năm 2015|tên 1=Paul|họ 1=Tuch|nhà xuất bản=[[Nielsen SoundScan]]|ngày truy cập=ngày 19 tháng 3 năm 2015|url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6X8cWypM8?url=https://dl.dropboxusercontent.com/u/67270545/Canadian%20Newsletters/2015/nielsen_music_canadian_update_Mar18_2015.pdf|ngày lưu trữ=2015-03-19|url-status=dead}}</ref>


Album được dự kiến trình làng vào tháng 3 năm 2015, với đĩa đơn đầu tiên sẽ được phát hành vào [[Ngày lễ tình nhân]]. Tuy nhiên, sau khi một loạt nội dung album [[Rò rỉ nhạc|bị rò rỉ]] ngoài ý muốn, Madonna quyết định phát hành trước ''Rebel Heart'' trên [[iTunes Store]] vào ngày 20 tháng 12 năm 2014, với sáu bài hát được phép tải xuống ngay lập tức. Một cuộc điều tra của cảnh sát đã dẫn đến việc bắt giữ và buộc tội một người đàn ông Israel vì đã [[Hacker|hack]] vào máy tính của Madonna và làm rò rỉ các ca khúc. Hình ảnh bìa album trở nên phổ biến trên mạng xã hội, tạo ra nhiều [[meme]] khác nhau.
Còn ở [[Vương quốc Anh]], công ty [[Official Charts Company]] báo cáo rằng ''Rebel Heart'' có doanh số vượt mặt các đối thủ khác với tỉ lệ 3:1 chỉ sau 24 giờ phát hành.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/madonna-s-rebel-heart-takes-early-lead-in-albums-chart-race__8597/|title=Madonna's Rebel Heart takes early lead in albums chart race|last=Moss|first=Liv|date=ngày 10 tháng 3 năm 2015|access-date =ngày 10 tháng 3 năm 2015|publisher=[[Official Charts Company]]}}</ref> Tuy nhiên, ''[[In the Lonely Hour]]'' của [[Sam Smith (ca sĩ)|Sam Smith]] vượt lên vào phút chót, và ''Rebel Heart'' ra mắt tại vị trí á quân bảng xếp hạng với doanh số chênh lệch với Sam Smith là 12.000 bản. Qua đó, ''Rebel Heart'' trở thành album đầu tiên của Madonna để lỡ vị trí quán quân kể từ sau khi album ''[[Bedtime Stories (album của Madonna)|Bedtime Stories]]'' cũng ra mắt tại vị trí này vào năm 1994.<ref name="ukdebut">{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-31896815|title=Sam Smith denies Madonna her 12th number one album|publisher=[[BBC]]|date=ngày 15 tháng 3 năm 2015|access-date =ngày 15 tháng 3 năm 2015}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/sam-smith-scores-official-charts-number-1-double__8678/|title=Sam Smith scores Official Charts Number 1 double|last=Moss|first=Liv|publisher=Official Charts Company|date=ngày 16 tháng 3 năm 2015|access-date =ngày 16 tháng 3 năm 2015}}</ref> Album bán được 37.245 bản trong đó có 416 bản là từ các dịch vụ chia sẻ âm nhạc, trở thành album có doanh số trong tuần đầu phát hành thấp nhất của Madonna. Tuy nhiên, Madonna vẫn giữ vững ngôi vị nữ hoàng doanh số album trong tuần đầu phát hành, với tổng số 7,65 triệu bản.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.musicweek.com/businessanalysis/read/official-charts-analysis-sam-smith-returns-to-top-singles-and-albums-charts/061165|title=Official Charts Analysis: Sam Smith returns to top Singles and Albums Charts|last=Jones|first=Alan|date=ngày 16 tháng 3 năm 2015|access-date=ngày 16 tháng 3 năm 2015|work=[[Music Week]]|url-access=subscription|archive-date=2015-03-16|archive-url=https://archive.today/20150316100420/http://www.musicweek.com/businessanalysis/read/official-charts-analysis-sam-smith-returns-to-top-singles-and-albums-charts/061165|url-status=dead}}</ref> ''Rebel Heart'' cũng ra mắt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng [[GfK Entertainment|German Albums Chart]], trở thành album thứ 12 của cô đạt ngôi quán quân tại thị trường này.<ref name="ger"/> Madonna đã vượt qua [[The Beatles]] và [[Robbie Williams]] để trở thành nghệ sĩ quốc tế có nhiều album quán quân nhất tại Đức, sánh ngang [[Herbert Grönemeyer]] với 12 album, chỉ sau [[Peter Maffay]] và [[James Last]] với 16 album và 13 album.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.t-online.de/unterhaltung/musik/id_73304166/madonna-ueberholt-beatles-und-robbie-williams-mit-rebel-heart-.html|title=Madonna überholt Beatles und Robbie Williams mit "Rebel Heart"|language=de|publisher=T-Online.de ([[Deutsche Telekom]])|date=ngày 17 tháng 3 năm 2015|access-date =ngày 18 tháng 3 năm 2015|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150318154851/http://www.t-online.de/unterhaltung/musik/id_73304166/madonna-ueberholt-beatles-und-robbie-williams-mit-rebel-heart-.html|archive-date = ngày 18 tháng 3 năm 2015 |url-status=live}}</ref> Tại Pháp, album cũng ra mắt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng [[Syndicat National de l'Édition Phonographique|SNEP Albums]] với doanh số đạt 17.000 bản chỉ trong 3 ngày phát hành.<ref name="fra">{{Chú thích web|url=http://www.snepmusique.com/tops-semaine/top-albums-fusionnes/?ye=2015&we=10|tiêu đề=Le Top de la semaine: Top Albums|nhà xuất bản=[[Syndicat National de l'Édition Phonographique]]|ngày truy cập=ngày 11 tháng 3 năm 2015|ngôn ngữ=fr}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.chartsinfrance.net/Madonna/news-96234.html|tiêu đề=Rebel Heart: Madonna déçoit et entre troisième du Top Albums. Les chiffres!|ngôn ngữ=fr|tên 1=Julien|họ 1=Goncalves|ngày tháng=ngày 11 tháng 3 năm 2015|ngày truy cập=ngày 12 tháng 3 năm 2015|nhà xuất bản=Pure Charts in France}}</ref> ''Rebel Heart'' cũng ra mắt tại vị trí này ở Áo, Croatia, Cộng Hòa Séc, Tây Ban Nha và Thụy Điển, cùng với việc lọt vào top 10 ở hầu hết các quốc gia châu Âu.<ref name="cz"/><ref name="nl"/><ref name="gr">{{Chú thích web|url=http://ifpi.gr/charts_el.html|tiêu đề=Official IFPI Charts&nbsp;– Top-75 Albums Sales Chart Εβδομάδα: 10/2015|nhà xuất bản=[[IFPI Greece]]|ngày truy cập=ngày 16 tháng 3 năm 2015|ngôn ngữ=el|url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6X5Y7NoGp?url=http://ifpi.gr/charts_el.html|ngày lưu trữ=2015-03-17|url-status=dead}}</ref> <!--One Hung Medien source is enough to confirm the position of these European countries -->


Để quảng bá cho nhạc phẩm, Madonna đã thực hiện nhiều buổi biểu diễn trên truyền hình và bắt đầu chuyến lưu diễn [[Rebel Heart Tour]], diễn ra từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016, đi qua Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Châu Đại Dương. "[[Living for Love]]", "[[Ghosttown (bài hát của Madonna)|Ghosttown]]", "[[Bitch I'm Madonna]]" và "[[Hold Tight (bài hát của Madonna)|Hold Tight]]" được phát hành dưới dạng đĩa đơn từ album này. ''Rebel Heart'' nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc; nhiều người nhận định đây là sản phẩm hay nhất của Madonna trong một thập kỷ qua. Album ra mắt và đạt vị trí thứ hai trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] của Hoa Kỳ và [[UK Albums Chart]], cũng như đạt vị trí quán quân tại [[Danh sách thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới|những thị trường âm nhạc lớn]] như Úc, Canada, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. ''Rebel Heart'' được chứng nhận [[Danh sách chứng nhận doanh số đĩa thu âm|vàng hoặc bạch kim]] ở bảy quốc gia.
Tại Úc, ''Rebel Heart'' đạt vị trí quán quân bảng xếp hạng [[ARIA Charts|ARIA Albums Chart]], trở thành album thứ 11 của Madonna đạt ngôi quán quân trên thị trường này và đưa cô lên ngang tầm với [[U2]] trong danh sách các nghệ sĩ có nhiều album quán quân nhất tính từ lúc ARIA thành lập năm 1983.<ref name="aus"/><ref>{{Chú thích web|url=http://www.ariacharts.com.au/news/40998/30-years-of-the-aria-charts----u2,-madonna-and-kylie-have-most-|tiêu đề=30 Years Of The ARIA Charts -- U2, Madonna and Kylie Have Most #1s|nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association|ngày truy cập=ngày 13 tháng 3 năm 2015|archive-date = ngày 22 tháng 3 năm 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150322142933/http://www.ariacharts.com.au/news/40998/30-years-of-the-aria-charts----u2,-madonna-and-kylie-have-most-}}</ref> Album đã giúp cho Madonna có tuần thứ 19 tại vị trí quán quân bảng xếp hạng, đứng thứ 24 trong danh sách các nghệ sĩ có tổng số tuần trụ tại vị trí quán quân nhiều nhất.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.noise11.com/news/aria-albums-madonna-rebel-heart-is-no-1-in-australia-20150315|tiêu đề=ARIA Albums: Madonna Rebel Heart Is No 1 In Australia|nhà xuất bản=[[Paul Cashmere|Noise11.com]]|họ 1=Ryan|tên 1=Gavin|ngày tháng=ngày 15 tháng 3 năm 2015|ngày truy cập=ngày 15 tháng 3 năm 2015}}</ref> Tại New Zealand, album ra mắt tại vị trí #7 trên bảng xếp hạng [[Official New Zealand Music Chart]].<ref name="NZchart"/> Tại Nhật Bản, ''Rebel Heart'' đạt vị trí #8 trên bảng xếp hạng [[Oricon Albums Chart]] với doanh số bán đĩa vật lý trong tuần đầu đạt 7,548 bản, trở thành album thứ 23 của Madonna lọt vào top 10 tại quốc gia này.<ref name="japan"/> Album cũng đạt vị trí quán quân bảng xếp hạng Oricon International Albums Chart.<ref name="japanintl">{{Chú thích web|url=http://www.oricon.co.jp/rank/wa/w/2015-03-23/|tiêu đề=週間 洋楽アルバムランキング|ngôn ngữ=ja|nhà xuất bản=[[Oricon]]|ngày tháng=ngày 23 tháng 3 năm 2015|ngày truy cập=ngày 19 tháng 3 năm 2015|archive-date=2015-04-03|archive-url=https://web.archive.org/web/20150403015230/http://www.oricon.co.jp/rank/wa/w/2015-03-23/|url-status=dead}}</ref> Ở Nam Hàn Quốc, ''Rebel Heart'' giúp cho Madonna ra mắt tại 2 vị trí liên tiếp trong top 10 của bảng xếp hạng [[Gaon Music Chart|Gaon International Albums Chart]], với phiên bản cao cấp đạt ngôi quán quân và phiên bản chuẩn ra mắt tại vị trí #7.<ref name="korea"/>

==Bối cảnh và phát triển==
Sau khi phát hành album phòng thu thứ mười hai ''[[MDNA (album)|MDNA]]'' (2012), Madonna bắt đầu chuyến lưu diễn [[The MDNA Tour]] nhằm quảng bá cho album.<ref name="touropens">{{cite press release|title=Madonna's MDNA Tour Now Opens in Tel Aviv on May 31st at Ramat Gan Stadium|url=http://www.marketwatch.com/story/madonnas-mdna-tour-now-opens-in-tel-aviv-on-may-31st-at-ramat-gan-stadium-2012-04-26|agency=[[PR Newswire]]|date=April 26, 2012|access-date=June 28, 2024|archive-url=http://www.freezepage.com/1336961407DJMJODPWLZ?url=http://www.marketwatch.com/story/madonnas-mdna-tour-now-opens-in-tel-aviv-on-may-31st-at-ramat-gan-stadium-2012-04-26|archive-date=May 14, 2012}}</ref> Chuyến lưu diễn này đã vấp phải nhiều tranh cãi gay gắt xuất phát từ những phát ngôn của bà liên quan đến bạo lực, nhân quyền, chính trị, việc sử dụng súng giả và hành động khỏa thân trên sân khấu. Bà thậm chí còn bị đe dọa kiện tụng nhiều lần.<ref name="law">{{cite magazine|url=https://www.rollingstone.com/music/news/madonna-fake-guns-violence-on-mdna-tour-are-symbols-20120828|title=Madonna: Fake Guns, Violence on MDNA Tour Are Symbols|last=Todd|first=Neil|date=August 28, 2012|access-date=June 28, 2024|magazine=Rolling Stone|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20130927170826/http://www.rollingstone.com/music/news/madonna-fake-guns-violence-on-mdna-tour-are-symbols-20120828|archive-date=September 27, 2013}}</ref> Madonna rất phẫn nộ với nhiều sự kiện trên thế giới mà nữ ca sĩ cho rằng đó là hành động "bất công" đối với nhân loại.<ref>{{cite web|first=Sal|last=Cinquemani|url=https://www.slantmagazine.com/house/article/radical-chic-madonna-unveils-short-film-secretprojectrevolution|title=Radical Chic: Madonna Unveils Short Film secretprojectrevolution|work=[[Slant Magazine]]|date=September 24, 2013|access-date=June 28, 2024|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20141220083131/http://www.slantmagazine.com/house/article/radical-chic-madonna-unveils-short-film-secretprojectrevolution|archive-date=December 20, 2014}}</ref> Vào tháng 9 năm 2013, Madonna phát hành '[[Secretprojectrevolution]]'', một bộ phim ngắn do bà đồng đạo diễn với [[Steven Klein (nghệ sĩ)|Steven Klein]], tập trung vào vấn đề tự do nghệ thuật và nhân quyền. Bộ phim này đã khởi động một sáng kiến toàn cầu mang tên Art for Freedom nhằm thúc đẩy [[Tự do ngôn luận|quyền tự do biểu đạt]].<ref>{{cite journal|first=Eriq|last=Gardner|url=https://www.hollywoodreporter.com/news/madonnas-secret-project-revealed-pop-630428|title=Madonna's Secret Project Revealed: Pop Superstar to Release Short Film Via BitTorrent to Aid Global 'Artistic Expression'|journal=[[The Hollywood Reporter]]|date=September 17, 2013|access-date=June 28, 2024|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20130920032437/http://www.hollywoodreporter.com/news/madonnas-secret-project-revealed-pop-630428|archive-date=September 20, 2013}}</ref> Trong một cuộc phỏng vấn với ''[[Vogue (tạp chí)|L'Uomo Vogue]]'', Madonna cho biết album tiếp theo của bà sẽ có liên quan đến Art for Freedom. Nữ ca sĩ cam kết với sáng kiến này và nhấn mạnh rằng bà cần phải sử dụng tiếng nói của mình với tư cách là một nghệ sĩ.<ref>{{cite web|url=http://www.vogue.it/en/l-uomo-vogue/cover-story/2014/05/16/madonna/|title=L'Uomo Vogue Cover Story: Madonna|first=Francesco|last=Spampinato|work=[[Vogue (tạp chí)|Vogue Italia]]|date=May 16, 2014|access-date=June 28, 2024|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20160410014737/http://www.vogue.it/en/l-uomo-vogue/cover-story/2014/05/16/madonna/|archive-date=April 10, 2016}}</ref>

Đến tháng 12 năm 2013, quản lý của Madonna [[Guy Oseary]] cho biết nữ ca sĩ đang "háo hức bắt đầu" thực hiện album tiếp theo của mình.<ref name="bbmartin"/> Tuy nhiên, bà còn ấp ủ một dự án khác: phát triển kịch bản cho bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết ''The Impossible Lives of Greta Wells'' của [[Andrew Sean Greer]]. Madonna quyết định phân bổ thời gian giữa việc viết kịch bản và sáng tác bài hát cho album mới.<ref name="nytint">{{cite news|url=https://www.nytimes.com/2015/03/06/arts/music/madonna-talks-about-rebel-heart-her-fall-and-more.html|title=Madonna Talks About 'Rebel Heart,' Her Fall and More|first=Jon|last=Pareles|date=March 6, 2015|access-date=June 28, 2024|author-link=Jon Pareles|work=[[The New York Times]]|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20150306211620/http://www.nytimes.com/2015/03/06/arts/music/madonna-talks-about-rebel-heart-her-fall-and-more.html|archive-date=March 6, 2015}}</ref> Vào tháng 2 năm 2014, Madonna xác nhận rằng bà đã bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ mười ba của mình.<ref>{{cite news|url=https://www.theglobeandmail.com/arts/music/my-seven-minute-speed-date-interview-with-madonna/article16897104/|title=My seven-minute, speed-date interview with Madonna|first=Sarah|last=Hampson|date=February 14, 2014|access-date=June 28, 2024|work=[[The Globe and Mail]]|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20140317111230/http://www.theglobeandmail.com/arts/music/my-seven-minute-speed-date-interview-with-madonna/article16897104/|archive-date=March 17, 2014}}</ref> Các sản phẩm trước đây của bà thường được thực hiện với một nhóm nhỏ những người cùng nhau phát triển âm nhạc. Tuy nhiên, khi làm việc với nhiều cộng sự trong ''Rebel Heart'', Madonna đã gặp khó khăn trong việc duy trì sự thống nhất về âm hưởng và định hướng sáng tạo cho album. Nữ ca sĩ nhận thấy rằng nhiều người được mời tham gia album không thể ở lại một thành phố nào trong thời gian dài do lịch trình bận rộn. Điều này dẫn đến việc Madonna không thể hoàn thành các ca khúc trong một buổi thu âm.<ref name="bbint"/>

==Sáng tác và thu âm==
{{multiple image
| image1 = Avicii 2014 003.jpg
| alt1 = Black-and-white photo of Avicii smiling
| width1 = 150

| image2 = Diplo 2014 Press Photo.jpg
| alt2 = Diplo looking down wearing a blue and yellow headphone
| width2 = 135

| footer = Hai trong số các cộng sự của Madonna trong album là [[Avicii]] (''trái'') và [[Diplo]] (''phải'')
}}

Vào tháng 3 năm 2014, Madonna bắt đầu đăng tải nhiều hình ảnh lên Instagram, ám chỉ về những nhạc sĩ và cộng sự tiềm năng cho album mới thông qua các [[hashtag]]. Đầu tiên, bà đăng bức ảnh về việc bước vào phòng thu cùng với DJ và nhà sản xuất người Thụy Điển [[Avicii]].<ref name="bbmartin">{{cite magazine|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6042316/madonna-hits-the-studio-with-natalia-kills-martin-kierszenbaum|title=Madonna Hits The Studio With Natalia Kills, Martin Kierszenbaum|first=Keith|last=Caulfield|date=April 10, 2014|access-date=June 28, 2024|magazine=[[Billboard]]|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20140704084528/http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6042316/madonna-hits-the-studio-with-natalia-kills-martin-kierszenbaum|archive-date=July 4, 2014}}</ref><ref>{{cite magazine|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/5930293/madonna-announces-avicii-collaboration-pair-hit-the-studio-together|title=Madonna Announces Avicii Collaboration, Pair Hit The Studio Together|first=Jessica|last=Letkemann|date=March 8, 2014|access-date=June 28, 2024|magazine=Billboard|url-status=live|archive-url=https://web.archive.org/web/20140706053523/http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/5930293/madonna-announces-avicii-collaboration-pair-hit-the-studio-together|archive-date=July 6, 2014}}</ref>


==Danh sách ca khúc==
==Danh sách ca khúc==

Phiên bản lúc 09:39, ngày 1 tháng 7 năm 2024

Rebel Heart
Bìa của tất cả các định dạng kỹ thuật số, bản phát hành đĩa vinyl và phiên bản CD cao cấp.
Album phòng thu của Madonna
Phát hành6 tháng 3 năm 2015 (2015-03-06)
Thu âm2014
Thể loạiPop
Thời lượng55:06
Hãng đĩaInterscope
Sản xuất
Thứ tự album của Madonna
MDNA World Tour
(2013)
Rebel Heart
(2015)
Rebel Heart Tour
(2017)
Đĩa đơn từ Rebel Heart
  1. "Living for Love"
    Phát hành: 20 tháng 12 năm 2014
  2. "Ghosttown"
    Phát hành: 13 tháng 3 năm 2015
  3. "Bitch I'm Madonna"
    Phát hành: 15 tháng 6 năm 2015
  4. "Hold Tight"
    Phát hành: 24 tháng 7 năm 2015

Rebel Heartalbum phòng thu thứ mười ba của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Madonna, được Interscope Records phát hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2015. Bà đã thực hiện album này trong suốt năm 2014, đồng sáng tác và đồng sản xuất với nhiều nhạc sĩ khác nhau, bao gồm Diplo, AviciiKanye West. Album còn có sự góp giọng của võ sĩ quyền anh Mike Tyson và các rapper Nicki Minaj, NasChance the Rapper.

Về mặt chủ đề, Rebel Heart đại diện cho hai khía cạnh lãng mạn và nổi loạn của nữ ca sĩ; những ý tưởng này được phát triển một cách tự nhiên trong quá trình sáng tác và thu âm. Về mặt âm nhạc, đây là một album nhạc pop kết hợp nhiều thể loại như house thập niên 1990, trapreggae, đồng thời sử dụng cả guitar acousticdàn hợp xướng phúc âm. Một số bài hát mang tính tự truyện, trong khi một số khác nói về tình yêu và sự nghiệp của Madonna. Khác với những dự án trước, việc hợp tác với nhiều cộng sự đã gây ra khó khăn cho Madonna trong việc duy trì sự thống nhất về âm hưởng và định hướng sáng tạo cho album.

Album được dự kiến trình làng vào tháng 3 năm 2015, với đĩa đơn đầu tiên sẽ được phát hành vào Ngày lễ tình nhân. Tuy nhiên, sau khi một loạt nội dung album bị rò rỉ ngoài ý muốn, Madonna quyết định phát hành trước Rebel Heart trên iTunes Store vào ngày 20 tháng 12 năm 2014, với sáu bài hát được phép tải xuống ngay lập tức. Một cuộc điều tra của cảnh sát đã dẫn đến việc bắt giữ và buộc tội một người đàn ông Israel vì đã hack vào máy tính của Madonna và làm rò rỉ các ca khúc. Hình ảnh bìa album trở nên phổ biến trên mạng xã hội, tạo ra nhiều meme khác nhau.

Để quảng bá cho nhạc phẩm, Madonna đã thực hiện nhiều buổi biểu diễn trên truyền hình và bắt đầu chuyến lưu diễn Rebel Heart Tour, diễn ra từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016, đi qua Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Châu Đại Dương. "Living for Love", "Ghosttown", "Bitch I'm Madonna" và "Hold Tight" được phát hành dưới dạng đĩa đơn từ album này. Rebel Heart nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc; nhiều người nhận định đây là sản phẩm hay nhất của Madonna trong một thập kỷ qua. Album ra mắt và đạt vị trí thứ hai trên Billboard 200 của Hoa Kỳ và UK Albums Chart, cũng như đạt vị trí quán quân tại những thị trường âm nhạc lớn như Úc, Canada, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. Rebel Heart được chứng nhận vàng hoặc bạch kim ở bảy quốc gia.

Bối cảnh và phát triển

Sau khi phát hành album phòng thu thứ mười hai MDNA (2012), Madonna bắt đầu chuyến lưu diễn The MDNA Tour nhằm quảng bá cho album.[1] Chuyến lưu diễn này đã vấp phải nhiều tranh cãi gay gắt xuất phát từ những phát ngôn của bà liên quan đến bạo lực, nhân quyền, chính trị, việc sử dụng súng giả và hành động khỏa thân trên sân khấu. Bà thậm chí còn bị đe dọa kiện tụng nhiều lần.[2] Madonna rất phẫn nộ với nhiều sự kiện trên thế giới mà nữ ca sĩ cho rằng đó là hành động "bất công" đối với nhân loại.[3] Vào tháng 9 năm 2013, Madonna phát hành 'Secretprojectrevolution, một bộ phim ngắn do bà đồng đạo diễn với Steven Klein, tập trung vào vấn đề tự do nghệ thuật và nhân quyền. Bộ phim này đã khởi động một sáng kiến toàn cầu mang tên Art for Freedom nhằm thúc đẩy quyền tự do biểu đạt.[4] Trong một cuộc phỏng vấn với L'Uomo Vogue, Madonna cho biết album tiếp theo của bà sẽ có liên quan đến Art for Freedom. Nữ ca sĩ cam kết với sáng kiến này và nhấn mạnh rằng bà cần phải sử dụng tiếng nói của mình với tư cách là một nghệ sĩ.[5]

Đến tháng 12 năm 2013, quản lý của Madonna Guy Oseary cho biết nữ ca sĩ đang "háo hức bắt đầu" thực hiện album tiếp theo của mình.[6] Tuy nhiên, bà còn ấp ủ một dự án khác: phát triển kịch bản cho bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết The Impossible Lives of Greta Wells của Andrew Sean Greer. Madonna quyết định phân bổ thời gian giữa việc viết kịch bản và sáng tác bài hát cho album mới.[7] Vào tháng 2 năm 2014, Madonna xác nhận rằng bà đã bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ mười ba của mình.[8] Các sản phẩm trước đây của bà thường được thực hiện với một nhóm nhỏ những người cùng nhau phát triển âm nhạc. Tuy nhiên, khi làm việc với nhiều cộng sự trong Rebel Heart, Madonna đã gặp khó khăn trong việc duy trì sự thống nhất về âm hưởng và định hướng sáng tạo cho album. Nữ ca sĩ nhận thấy rằng nhiều người được mời tham gia album không thể ở lại một thành phố nào trong thời gian dài do lịch trình bận rộn. Điều này dẫn đến việc Madonna không thể hoàn thành các ca khúc trong một buổi thu âm.[9]

Sáng tác và thu âm

Black-and-white photo of Avicii smiling
Diplo looking down wearing a blue and yellow headphone
Hai trong số các cộng sự của Madonna trong album là Avicii (trái) và Diplo (phải)

Vào tháng 3 năm 2014, Madonna bắt đầu đăng tải nhiều hình ảnh lên Instagram, ám chỉ về những nhạc sĩ và cộng sự tiềm năng cho album mới thông qua các hashtag. Đầu tiên, bà đăng bức ảnh về việc bước vào phòng thu cùng với DJ và nhà sản xuất người Thụy Điển Avicii.[6][10]

Danh sách ca khúc

Rebel Heart – Phiên bản chuẩn[11]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Living for Love"
3:38
2."Devil Pray"
4:05
3."Ghosttown"
4:08
4."Unapologetic Bitch"
  • Madonna
  • Pentz
  • Rechtshaid
  • McDonald
  • Gad
  • Madonna
  • Diplo
3:50
5."Illuminati"
3:43
6."Bitch I'm Madonna" (hợp tác với Nicki Minaj)
  • Madonna
  • Pentz
  • Rechtshaid
  • McDonald
  • Gad
3:47
7."Hold Tight"
  • Madonna
  • Pentz
  • Gad
  • McDonald
  • Emenike
 3:37
8."Joan of Arc"
  • Madonna
  • Gad
  • McDonald
  • Griffin Jr.
 4:01
9."Iconic" (hợp tác với Chance the RapperMike Tyson)
 4:33
10."HeartBreakCity"
 3:33
11."Body Shop"
  • Madonna
  • Gad
  • McDonald
  • Griffin Jr.
  • Natche
  • Tucker
 3:39
12."Holy Water" 4:09
13."Inside Out"
  • Madonna
  • Evigan
  • Dean
 4:23
14."Wash All Over Me"
 4:00
Tổng thời lượng:55:06
Rebel Heart – Bài hát thêm cho phiên bản chuẩn của Media Markt[12]
STTNhan đềThời lượng
15."Auto-Tune Baby"4:00
Tổng thời lượng:59:06
Rebel Heart – Phiên bản cao cấp (bài hát thêm)[13]
STTNhan đềSáng tácThời lượng
15."Best Night"
  • Madonna
  • Pentz
  • Rechtshaid
  • McDonald
  • Gad
3:33
16."Veni Vidi Vici" (hợp tác với Nas)
  • Madonna
  • Pentz
  • Rechtshaid
  • McDonald
  • Gad
4:39
17."S.E.X."
  • Madonna
  • Gad
  • McDonald
  • Griffin Jr.
  • Dean
4:11
18."Messiah"
  • Madonna
  • Bergling
  • Pournouri
  • Lidehäll
3:22
19."Rebel Heart"
  • Madonna
  • Bergling
  • Pournouri
  • Lidehäll
3:21
Tổng thời lượng:74:15
Rebel Heart – Bài hát thêm cho phiên bản cao cấp của Media Markt[14]
STTNhan đềThời lượng
20."Auto-Tune Baby"4:00
Tổng thời lượng:78:15
Rebel Heart – Bài hát thêm cho phiên bản cao cấp tiếng Nhật[15]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
20."Living for Love" (Dirty Pop phối khí lại)
  • Madonna
  • Pentz
  • McDonald
  • Gad
  • Rechtshaid
  • Emenike
  • Madonna
  • Diplo
4:59
Tổng thời lượng:79:13
Rebel Heart – Phiên bản cao cấp của Fnac (Đĩa 2)[16]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Living for Love" (Thrill phối khí lại)
  • Madonna
  • Pentz
  • McDonald
  • Gad
  • Rechtshaid
  • Emenike
  • Madonna
  • Diplo
5:11
2."Living for Love" (Offer Nissim Dub phối)
  • Madonna
  • Pentz
  • McDonald
  • Gad
  • Rechtshaid
  • Emenike
  • Madonna
  • Diplo
7:12
Rebel Heart – Phiên bản siêu cao cấp (Đĩa 2)[17] / EP tải kĩ thuật số[18]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Beautiful Scars"  4:19
2."Borrowed Time"  3:24
3."Addicted"  3:33
4."Graffiti Heart"
  • Madonna
  • Gad
  • McDonald
  • Griffin Jr.
 3:39
5."Living for Love" (Paulo & Jackinsky phối giọng hát đầy đủ)
  • Madonna
  • Pentz
  • McDonald
  • Gad
  • Rechtshaid
  • Emenike
  • Madonna
  • Diplo
7:14
6."Living for Love" (Funk Generation & H3drush Dub)
  • Madonna
  • Pentz
  • McDonald
  • Gad
  • Rechtshaid
  • Emenike
  • Madonna
  • Diplo
6:07
Tổng thời lượng:27:36

Xếp hạng

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Áo (IFPI Áo)[68] Vàng 7.500*
Brasil (Pro-Música Brasil)[69] Vàng 20.000*
Pháp (SNEP)[71] Vàng 50,000[70]
Ý (FIMI)[72] Bạch kim 50.000*
México (AMPROFON)[73] Vàng 30.000^
Ba Lan (ZPAV)[74] Vàng 10.000double-dagger
Hàn Quốc (GAON) 3,375[63]
Anh Quốc (BPI)[76] Bạc 76,490[75]
Mỹ (RIAA) 116,000[77]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

Nước Ngày Định dạng Nhãn Nguồn
Vương quốc Anh 20 tháng 12 năm 2014 Tải kĩ thuật số (Đặt album trên iTunes + bài 2–6) [78]
Úc Tải kĩ thuật số (Đặt album trên iTunes + bài 1–6) [79]
Hy Lạp [80]
New Zealand [81]
Hàn Quốc [82]
Thổ Nhĩ Kỳ [83]
Mỹ [84]
Toàn cầu 10 tháng 3 năm 2015
  • CD
  • Tải kĩ thuật số

Tham khảo

  1. ^ “Madonna's MDNA Tour Now Opens in Tel Aviv on May 31st at Ramat Gan Stadium” (Thông cáo báo chí). PR Newswire. 26 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ Todd, Neil (28 tháng 8 năm 2012). “Madonna: Fake Guns, Violence on MDNA Tour Are Symbols”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ Cinquemani, Sal (24 tháng 9 năm 2013). “Radical Chic: Madonna Unveils Short Film secretprojectrevolution”. Slant Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ Gardner, Eriq (17 tháng 9 năm 2013). “Madonna's Secret Project Revealed: Pop Superstar to Release Short Film Via BitTorrent to Aid Global 'Artistic Expression'. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  5. ^ Spampinato, Francesco (16 tháng 5 năm 2014). “L'Uomo Vogue Cover Story: Madonna”. Vogue Italia. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  6. ^ a b Caulfield, Keith (10 tháng 4 năm 2014). “Madonna Hits The Studio With Natalia Kills, Martin Kierszenbaum”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ Pareles, Jon (6 tháng 3 năm 2015). “Madonna Talks About 'Rebel Heart,' Her Fall and More”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  8. ^ Hampson, Sarah (14 tháng 2 năm 2014). “My seven-minute, speed-date interview with Madonna”. The Globe and Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  9. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên bbint
  10. ^ Letkemann, Jessica (8 tháng 3 năm 2014). “Madonna Announces Avicii Collaboration, Pair Hit The Studio Together”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  11. ^ “Rebel Heart by Madonna”. iTunes Store. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  12. ^ “Madonna — Rebel Heart (Exklusive Standard Edition inkl. Bonus Track)” (bằng tiếng Đức). Media Markt. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015.
  13. ^ “Rebel Heart by Madonna”. iTunes Store. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  14. ^ “Madonna — Rebel Heart (Exklusive Deluxe Edition inkl. Bonus Track)” (bằng tiếng Đức). Media Markt. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2015.
  15. ^ “Rebel Heart: Madonna” (bằng tiếng Nhật). CD Japan. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2015.
  16. ^ “Rebel Heart – Édition Deluxe” (bằng tiếng Pháp). Fnac. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2015.
  17. ^ “Rebel Heart: Limited Super Deluxe Edition”. Đức: Amazon.com. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  18. ^ “Rebel Heart – EP by Madonna”. iTunes Store. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2015.
  19. ^ “CAPIF Rankings Mensual” (bằng tiếng Tây Ban Nha). CAPIF. Bản gốc (Select "April 2015") lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2015.
  20. ^ "Australiancharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ "Austriancharts.at – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  22. ^ "Ultratop.be – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  23. ^ "Ultratop.be – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  24. ^ “Top CD: 30/03/2015 a 05/04/2015” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ABPD. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2015.
  25. ^ "Madonna Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  26. ^ “Top Kombiniranih – Tjedan 11. 2015” [Top Combined – Week 11. 2015.] (bằng tiếng Croatia). Hrvatska Diskografska Udruga. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2015.
  27. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201511 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2015.
  28. ^ "Danishcharts.dk – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  29. ^ "Dutchcharts.nl – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
  30. ^ "Madonna: Rebel Heart" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2015.
  31. ^ "Lescharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  32. ^ "Officialcharts.de – Madonna – Rebel Heart". GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2015.
  33. ^ “Greek Albums: ngày 28 tháng 3 năm 2015”. IFPI Greece. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  34. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2015. 11. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  35. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 11, 2015". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  36. ^ "Italiancharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2015.
  37. ^ 23 tháng 3 năm 2015/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 23 tháng 3 năm 2015" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  38. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên japanintl
  39. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "2015.03.08~2015.03.14", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2015.
  40. ^ a b “Los Más Vendidos 2015 - Mejor posición” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  41. ^ "Charts.nz – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2015.
  42. ^ "Norwegiancharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  43. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  44. ^ "Portuguesecharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  45. ^ “Новый альбом Мадонны стартовал со второй строчки в чартах российского” (bằng tiếng Nga). Lenta.ru. ngày 17 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.
  46. ^ 15 tháng 3 năm 2015/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2015.
  47. ^ "Spanishcharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
  48. ^ "Swedishcharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
  49. ^ "Swisscharts.com – Madonna – Rebel Heart" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
  50. ^ “Weekly Top 20 – Five Music Chart 2015/03/13 – 2015/03/19” (bằng tiếng Trung). Five Music. Bản gốc (Select Week 11, Year 2015 from the bottom of the list) lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2016.
  51. ^ "Madonna | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
  52. ^ "Madonna Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.
  53. ^ “Jaaroverzichten 2015” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2015.
  54. ^ “Rapports Annuels 2015” (bằng tiếng Pháp). Ultatop. Hung Medien. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2015.
  55. ^ “2015 Billboard Top Canadian Albums”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  56. ^ “Top 50 Strana 2015” (bằng tiếng Croatia). Croatian Music Channel. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  57. ^ “Dutch Albums Year End 2015”. MegaCharts. Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  58. ^ “Le Top de l'année: Top Albums Fusionnés – 2015” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2016.
  59. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  60. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista - eladási darabszám alapján - 2015” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
  61. ^ “Classifiche 'Top of the Music' 2015 FIMI-GfK” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Bản gốc (Click on "Scarica allegato" to download the zipped file containing the year-end chart PDF documents) lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  62. ^ “Oricon Year end albums 2015” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  63. ^ a b “2015년 Album Chart: International Artists” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2016.
  64. ^ “Jahreshitparade 2015 Alben”. Schweizer Hitparade. Hung Medien. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  65. ^ “End of Year Album Chart Top 100 2015”. Official Charts Company. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  66. ^ “2015 Billboard 200 Top Albums”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  67. ^ “2015 Billboard Top Album Sales”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  68. ^ “Chứng nhận album Áo – Madonna – Rebel Heart” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  69. ^ “Chứng nhận album Brasil – Madonna – Rebel Heart” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2015.
  70. ^ “Quels sont les flops musicaux de 2015 ?” (bằng tiếng Pháp). Pure charts in France. ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2015.
  71. ^ “Chứng nhận album Pháp – Madonna – Rebel Heart” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2015.
  72. ^ “Chứng nhận album Ý – Madonna – Rebel Heart” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015. Chọn "2015" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Rebel Heart" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  73. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2015. Nhập Madonna ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Rebel Heart ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  74. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2015 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2015.
  75. ^ Jones, Alan (ngày 22 tháng 6 năm 2015). “Official Charts Analysis: Muse's Drones hover at No.1 for second week”. Music Week. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  76. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Madonna – Rebel Heart” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2015. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạc' ở phần Certification. Nhập Rebel Heart vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  77. ^ 'Empire' Soundtrack Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart, Madonna Arrives at No. 2” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.
  78. ^ “Rebel Heart – Madonna”. UK: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  79. ^ “Rebel Heart – Madonna”. AU: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  80. ^ “Rebel Heart – Madonna”. GR: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  81. ^ “Rebel Heart – Madonna”. NZ: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  82. ^ “Rebel Heart – Madonna”. ZA: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  83. ^ “Rebel Heart – Madonna”. TR: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  84. ^ “Rebel Heart – Madonna”. US: iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2015.

Liên kết ngoài