Vương tộc Plantagenet
Vương tộc Plantagenet | |
---|---|
Hoàng tộc cũ | Nhà Ingelger |
Quốc gia | |
Thành lập | Thế kỉ 12 |
Thông tin | |
Quân chủ cuối cùng | Richard III của Anh |
Tước hiệu | Danh sách
|
Giải thể |
|
Phế truất | 1485 |
Dòng nhánh |
|
Vương tộc Plantagenet[nb 1] (phát âm: /plænˈtædʒənɪt/) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn triều đại khác biệt: những vị vua Angevin, cũng là Bá tước xứ Anjou; triều đại chính Plantagenet sau khi mất Anjou; và hai nhánh phụ của nhà Plantagenet, triều đại Lancaster và York. Triều đại này nắm giữ ngai vàng Anh từ năm 1154, bắt đầu với Henry II cho đến năm 1485 khi Richard III qua đời trong trận chiến.
Dưới triều đại Plantagenet, nước Anh đã biến đổi mặc dù chỉ là vài phần có chủ đích. Các vị vua Plantagenet thường bị buộc phải đàm phán các thỏa hiệp như Magna Carta, vốn hạn chế quyền lực của hoàng gia để đổi lấy sự hỗ trợ về tài chính và quân sự. Nhà vua không chỉ là người quyền lực nhất đất nước, nắm giữ đặc quyền phán xét, cống nạp phong kiến và chiến tranh, mà có nghĩa vụ rõ ràng đối với vương quốc, được hỗ trợ bởi một hệ thống tư pháp cầu kì. Bản sắc dân tộc riêng biệt của họ được hình thành bởi các cuộc xung đột với người Pháp, người Scotland, người Wales và người Ireland, cũng như việc thiết lập tiếng Anh trung đại trở thành ngôn ngữ chính.
Vào thế kỷ 15, triều đại Plantagenet bị đánh bại trong Chiến tranh Trăm năm và vướng phải nhiều vấn đề về xã hội, chính trị và kinh tế. Các cuộc nổi loạn của người dân diễn ra thường xuyên do nhiều quyền tự do bị từ chối. Giới quý tộc Anh thành lập quân đội riêng, tham gia vào các cuộc xung đột riêng và công khai thách thức Henry VI.
Cuộc cạnh tranh giữa hai nhánh của nhà Plantagenet là York và Lancaster đã dẫn đến Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ để tranh giành ngôi vị nước Anh. Cuộc chiến lên đến đỉnh điểm trong Trận Bosworth năm 1485, khi triều đại của Vương tộc Plantagenet và thời kỳ Trung cổ ở Anh đều kết thúc sau cái chết của Richard III. Cuối cùng Henry VII, một người có gốc thuộc nhà Lancaster đã trở thành Quốc vương chính thống của nước Anh. Năm tháng sau, ông kết hôn với Elizabeth xứ York, do đó kết thúc Chiến tranh Hoa Hồng và dẫn đến sự ra đời vương triều Tudor. Vương tộc Tudor đã làm việc để tập trung quyền lực hoàng gia Anh, cho phép họ tránh được một số vấn đề đã gây khó khăn cho những vị vua cuối cùng của nhà Plantagenet. Sự ổn định sau đó đã bắt đầu thời kỳ Phục Hưng Anh và nước Anh hiện đại sơ khai. Tất cả các quốc vương Anh và sau đó là Vương quốc Liên hiệp Anh từ Henry VII đến nay đều là hậu duệ của Vương tộc Plantagenet.
Định nghĩa
[sửa | sửa mã nguồn]Plantagenet
[sửa | sửa mã nguồn]Richard xứ York, Công tước thứ 3 xứ York nhận Plantagenet làm tên dòng họ vào thế kỷ 15. Plantegenest (hay Plante Genest) từng là biệt danh vào thế kỷ 12 của tổ tiên Richard là Geoffroy V xứ Anjou và Công tước xứ Normandie. Một trong nhiều giả thuyết phổ biến cho rằng biệt danh này có nguồn gốc từ hoa của loài cây chổi Cytisus scoparius, một loài thực vật có màu vàng được gọi là genista trong tiếng Latin trung đại.[1]
Không rõ tại sao Richard lại chọn cái tên này, mặc dù trong Chiến tranh Hoa Hồng, nó nhấn mạnh địa vị của Richard là hậu duệ bên đằng nội của Geoffroy. Việc sử dụng cái tên Plantagenet để chỉ tất cả hậu duệ nam của Geoffroy rất phổ biến trong triều đại Tudor, có lẽ bởi tính hợp pháp mà nó mang lại cho chắt trai của Richard là Henry VIII. Phải đến cuối thế kỷ 17, thuật ngữ này mới được các nhà sử học sử dụng phổ biến.[2]
Angevin
[sửa | sửa mã nguồn]Angevin trong tiếng Pháp có nghĩa là "từ Anjou", và có ba vị vua Angevin là con trai của Geoffroy xứ Anjou là Henry II, Richard I và John. Các dòng họ quý tộc thường được đặt theo lãnh thổ hoặc nơi sinh, ví dụ như Vương tộc Normandy hoặc Vương tộc Wessex. "Angevin" cũng có thể ám chỉ giai đoạn lịch sử mà họ trị vì, và nhiều nhà sử học coi Angevin là một vương tộc Anh riêng biệt, hoặc cũng được sử dụng để ám chỉ bất kỳ chủ quyền hoặc chính phủ nào có nguồn gốc từ Anjou. Là một danh từ, nó đề cập đến người bản xứ Anjou hoặc một nhà cai trị Angevin, cụ thể là bá tước và công tước của Anjou bao gồm tổ tiên của ba vị vua thành lập nên vương tộc Anh, họ hàng của các vị vua là người cai trị Jerusalem, và các thành viên hoàng gia Pháp không có quan hệ họ hàng sau đó đã được trao tặng danh hiệu và thành lập các triều đại khác nhau, chẳng hạn như Nhà Capet của Anjou và Nhà Valois của Anjou. Do đó, có sự bất đồng giữa những người coi Henry III là quốc vương Plantagenet đầu tiên với những người không phân biệt giữa Nhà Angevin và Nhà Plantagenet, do đó họ coi Henry II là quốc vương Plantagenet đầu tiên.[3][4][5][6]
Thuật ngữ "Đế quốc Angevin" được Kate Norgate đặt ra vào năm 1887. Không có tên gọi chung đương thời được biết đến để chỉ tất cả vùng lãnh thổ được cai trị bởi các vị vua Angevin Anh, dẫn đến những tên gọi vòng vo như "vương quốc của chúng ta và mọi thứ nằm dưới sự cai trị của chúng ta bất kể nó là gì" hoặc "toàn bộ vương quốc từng thuộc về cha của ngài". Từ "Đế quốc" trong "Đế quốc Angevin" đã gây tranh cãi, đặc biệt là vì những lãnh thổ này không chịu sự quản lý của bất kỳ luật lệ hay hệ thống quản lý thống nhất nào, và mỗi vùng vẫn giữ nguyên luật lệ, truyền thống và mối quan hệ phong kiến riêng. Năm 1986, một hội nghị của các nhà sử học đã kết luận rằng không có nhà nước Angevin và do đó không có "Đế quốc Angevin", nhưng thuật ngữ espace Plantagenet ("khu vực Plantagenet" trong tiếng Pháp) lại được chấp nhận. Tuy vậy, các nhà sử học vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "Đế quốc Angevin".[nb 2]
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Các bá tước xứ Anjou sau này, bao gồm cả nhà Plantagenet là hậu duệ của Geoffroy II, Bá tước xứ Gâtinais và vợ là Ermengarde xứ Anjou. Năm 1060, cặp vợ chồng được thừa kế tước hiệu thông qua quan hệ họ hàng với một gia tộc Angevin có nguồn gốc từ một quý tộc tên là Ingelger, có lịch sử được ghi chép từ năm 870.[7]
Trong thế kỷ thứ 10 và 11, các cuộc đấu tranh giành quyền lực đã diễn ra giữa những người cai trị ở miền bắc và miền tây nước Pháp, bao gồm những người cai trị Anjou, Normandie, Bretagne, Poitou, Blois, Maine và các vị vua Pháp. Vào đầu thế kỷ 12, Geoffroy xứ Anjou kết hôn với Hoàng hậu Matilda, là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Henry I và là người thừa kế ngai vàng Anh. Kết quả của cuộc hôn nhân này là con trai Henry II của Geoffroy được kế thừa ngai vàng Anh cũng như các tước hiệu Norman và Angevin, do đó đánh dấu sự khởi đầu của các triều đại Angevin và Plantagenet.
Cuộc hôn nhân là nỗ lực thứ ba của cha Geoffroy là Fulk V, Bá tước xứ Anjou để xây dựng một liên minh chính trị với Normandie. Trước tiên, ông gả con gái của mình là Mathilde xứ Anjou cho William Adelin, người thừa kế của Henry I. Sau khi William chết đuối trong vụ chìm tàu White Ship, Fulk gả một người con gái khác của mình là Sibylle cho William Clito, con của anh trai Henry I là Robert Curthose. Henry I đã hủy bỏ cuộc hôn nhân để tránh củng cố yêu sách đối địch của William đối với Normandie. Cuối cùng, Fulk đã đạt được mục tiêu của mình thông qua cuộc hôn nhân của Geoffroy và Matilda. Sau đó, Fulk truyền lại danh hiệu của mình cho Geoffroy và trở thành Vua Jerusalem.
Các vị vua Angevin
[sửa | sửa mã nguồn]Cuộc đổ bộ đến Anh
[sửa | sửa mã nguồn]Khi Henry II chào đời vào năm 1133, ông ngoại của ông là Henry I được cho là đã rất vui mừng và nói rằng cậu bé là "người thừa kế vương quốc". Sự ra đời của Henry làm giảm nguy cơ vương quốc sẽ được chuyển giao cho gia đình con rể của Nhà vua, điều này có thể xảy ra nếu Matilda và Geoffroy không có con. Sự ra đời của con trai thứ hai, cũng tên là Geoffrey, làm tăng khả năng thừa kế theo phong tục của Pháp, trong đó Henry sẽ nhận được quyền thừa kế Anh từ phía nhà ngoại và Geoffroy nhận được quyền thừa kế Angevin từ phía nhà nội. Điều này sẽ tách biệt vương quốc Anh và Anjou.[8]
Để đảm bảo một sự kế vị có trật tự, Geoffroy và Matilda đã tìm kiếm thêm quyền lực từ Henry I, nhưng một trận cãi vã đã xảy ra sau khi Nhà vua từ chối trao cho họ quyền lực có thể được sử dụng để chống lại ông. Khi Henry I qua đời vào tháng 12 năm 1135, cặp vợ chồng lúc đó đang ở Anjou, tạo điều kiện cho anh họ của Matilda là Stephen chiếm đoạt ngai vàng nước Anh. Việc Stephen lên ngôi gây tranh cãi đã bắt đầu tình trạng bất ổn dân sự lan rộng sau này được gọi là Sự hỗn loạn.[9]
Bá tước Geoffroy không mấy quan tâm đến nước Anh. Thay vào đó, ông bắt đầu cuộc chiến tranh kéo dài mười năm vì công quốc Normandie, nhưng rõ ràng là để đưa cuộc xung đột này đến hồi kết thành công, Stephen sẽ phải bị thách thức ở Anh. Năm 1139, Matilda và người anh cùng cha khác mẹ là Robert xâm lược nước Anh.[10] Từ năm chín tuổi, Henry nhiều lần được cử đến Anh để làm bù nhìn trong các chiến dịch, vì rõ ràng là cậu sẽ trở thành vua nếu nước Anh bị chinh phục. Năm 1141, Stephen bị bắt trong trận Lincoln và sau đó được trao đổi với Robert, người cũng bị bắt. Geoffroy tiếp tục cuộc chinh phục Normandie và vào năm 1150 ông chuyển giao công quốc cho Henry trong khi vẫn giữ vai trò chính trong chính quyền công quốc.[11]
Ba sự kiện đã giúp nhà Angevin chấm dứt thành công cuộc xung đột:
- Bá tước Geoffroy qua đời năm 1151 trước khi hoàn tất việc phân chia vương quốc cho Henry và em trai của Henry là Geoffrey, người sẽ thừa kế Anjou. Theo William xứ Newburgh viết vào những năm 1190, Bá tước Geoffroy quyết định rằng Henry sẽ tiếp nhận Anh và Anjou miễn là ông cần nguồn lực cho cuộc xung đột chống lại Stephen. Bá tước Geoffroy chỉ thị rằng thi thể của ông không được chôn cất cho đến khi Henry tuyên thệ rằng Geoffrey trẻ tuổi sẽ tiếp nhận Anjou khi Anh và Normandie đã được bảo vệ.[12] W. L. Warren nghi ngờ về câu chuyện này vì nó được viết vào giai đoạn sau đó, dựa trên một nguồn tài liệu đương thời duy nhất, nên sẽ rất khó để Geoffrey hay Henry coi lời tuyên thệ như vậy là ràng buộc và nó sẽ phá vỡ thông lệ thừa kế vào thời điểm đó.[13] Geoffrey trẻ tuổi qua đời năm 1158 trước khi tiếp nhận Anjou, nhưng ông đã trở thành bá tước xứ Nantes khi người dân Nantes nổi loạn chống lại người cai trị, và Henry đã ủng hộ cuộc nổi loạn.[14]
- Louis VII của Pháp được cho phép hủy bỏ cuộc hôn nhân với Aliénor xứ Aquitaine vào ngày 18 tháng 3 năm 1152, và bà kết hôn với Henry (người sau này trở thành Henry II) vào ngày 18 tháng 5 năm 1152. Do đó, gia tộc Angevin đã giành được Công quốc Aquitaine.[15]
- Vợ và con trai cả của Stephen là Eustache qua đời năm 1153, dẫn đến Hiệp ước Wallingford. Hiệp ước chấp thuận lời đề nghị hòa bình mà Matilda đã từ chối năm 1142, công nhận Henry là người thừa kế của Stephen, đảm bảo quyền thừa kế tài sản cho Guillaume, con trai thứ hai của Stephen và cho phép ông trở thành vua đến lúc qua đời. Ngay sau đó, Stephen qua đời sớm và Henry lên ngôi vào cuối năm 1154.[16]
Đánh mất vùng Anjou
[sửa | sửa mã nguồn]Việc Richard không cung cấp người thừa kế đã gây ra một cuộc khủng hoảng liên tiếp và xung đột giữa những người ủng hộ yêu sách của cháu trai ông, Arthur và John. Guillaume des Roches dẫn đầu các đại thần của Anjou, Maine và Touraine tuyên bố ủng hộ Arthur.[17] Một lần nữa Philippe II của Pháp cố gắng làm xáo trộn các lãnh thổ Plantagenet trên lục địa châu Âu bằng cách ủng hộ yêu sách của chư hầu Arthur của ông đối với ngai vàng Anh. John đã giành được một chiến thắng quan trọng khi ngăn chặn lực lượng của Arthur bắt giữ mẹ ông, bắt giữ toàn bộ thủ lĩnh phiến quân tại Trận Mirebeau và em gái là Aliénor xứ Bretagne.
John không quan tâm đến ý kiến của đồng minh về số phận của các tù nhân, nhiều người trong số họ là láng giềng và họ hàng của ông. Thay vào đó, ông giam giữ các tù nhân của mình một cách quá tàn ác và đau thương đến nỗi điều đó trở nên xấu hổ và xấu xí đối với tất cả những người ở cùng John và những người chứng kiến sự tàn ác này, theo Histoire de Guillaume le Maréchal.[18] Do hành động của John, các gia tộc Thouars, Lusignan và des Roches hùng mạnh đã nổi loạn và John mất quyền kiểm soát Anjou, Maine, Touraine và phía bắc Poitou. Con trai của John là Henry III duy trì yêu sách đối với các vùng lãnh thổ Angevin cho đến tháng 12 năm 1259 khi ông chính thức đầu hàng và đổi lại được trao Gascogne với tước hiệu công tước xứ Aquitaine và là chư hầu của vua Pháp.[19]
Danh tiếng của John càng bị tổn hại hơn vì tin đồn, được mô tả trong biên niên sử Margam rằng chính ông đã giết Arthur trong lúc say rượu, và nếu diều đó không đúng thì gần như chắc chắn John đã ra lệnh giết người.[20] Có hai quan điểm trái ngược nhau giải thích về sự sụp đổ đột ngột vị thế của John. Sir James Holt cho rằng đây là kết quả tất yếu của nguồn lực vượt trội của Pháp. John Gillingham xác định sự quản lý ngoại giao và quân sự yếu kém và chỉ ra rằng Richard đã quản lý được lãnh thổ Angevin với nguồn tài chính tương đương.[21] Nick Barratt đã tính toán rằng nguồn lực của Angevin có thể sử dụng trong chiến tranh ít hơn 22 phần trăm so với Philippe, khiến Angevin ở thế bất lợi.[22]
Đến năm 1214, John tái lập quyền lực của bản thân tại Anh và lên kế hoạch mà Gillingham gọi là chiến lược lớn để chiếm lại Normandie và Anjou.[23] Kế hoạch là John sẽ thu hút quân Pháp từ Paris, trong khi một đội quân khác do cháu trai ông là Otto IV, Hoàng đế La Mã Thần thánh và người anh cùng cha khác mẹ William chỉ huy tấn công từ phía bắc. Ông cũng đưa cháu gái Aliénor xứ Bretagne của mình đến với mục đích đưa lên làm Nữ công tước xứ Bretagne. Kế hoạch đã thất bại khi đồng minh của John bị đánh bại tại Trận Bouvines. Otto rút lui và sớm bị lật đổ, William bị người Pháp bắt giữ và John đồng ý một thỏa thuận ngừng chiến trong năm năm.[24][25]
Từ đó trở đi, John cũng từ bỏ yêu sách đối với Bretagne của Aliénor và giam giữ bà suốt đời.[26] Thất bại của John làm suy yếu quyền lực của ông tại Anh, và các nam tước buộc ông phải đồng ý với Magna Carta vào năm 1215, trong đó hạn chế quyền lực hoàng gia. Cả hai bên đều không tuân thủ các điều khoản của Magna Carta, dẫn đến Chiến tranh Nam tước lần thứ nhất, trong đó các nam tước nổi loạn đã mời Vương tử Louis là chồng của Blanca, cháu gái Henry II đến xâm lược Anh.[27] Louis đã làm như vậy nhưng vào tháng 10 năm 1216, trước khi cuộc xung đột kết thúc một cách dứt khoát, John đã qua đời.[28] Trang web chính thức của Hoàng gia Anh coi cái qua đời của John là sự kết thúc của triều đại Angevin và sự khởi đầu của triều đại Plantagenet.[29]
Dòng chính
[sửa | sửa mã nguồn]Bằng chứng cho sự tham gia của Edward vào cải cách pháp lý là khó tìm nhưng triều đại của ông đã thấy một chương trình thay đổi pháp lý lớn. Phần lớn động lực và quyết tâm có thể đến từ nhà vua và kinh nghiệm của ông về phong trào cải cách nam tước vào cuối những năm 1250 và đầu những năm 1260. Với các đạo luật của Mortmain, Edward áp đặt thẩm quyền của mình lên Giáo hội; các đạo luật cấm hiến đất cho Giáo hội, khẳng định các quyền của Vương miện bằng các đặc quyền phong kiến truyền thống, thúc đẩy việc quản lý công lý thống nhất, tăng thu nhập và hệ thống hóa luật pháp. Các chiến dịch quân sự của ông đã để lại cho ông một khoản nợ lớn và khi Philip IV của Pháp tịch thu Công quốc Gascony năm 1294, Edward cần tiền để gây chiến ở Pháp. Khi Edward triệu tập một hội nghị sắp đặt tiền lệ để tăng thêm thuế cho tài chính quân sự, ông đã bao gồm các chủ đất và thương nhân ít hơn. Quốc hội kết quả bao gồm các nam tước, giáo sĩ, hiệp sĩ và những người thành thị lần đầu tiên.[30]
Sự mở rộng đảo Anh
[sửa | sửa mã nguồn]Khi gia nhập, Edward I đã tìm cách tổ chức vương quốc của mình, thực thi các yêu sách của mình đối với tính ưu việt ở Đảo Anh. Llywelyn ap Gruffudd tuyên bố để cai trị Bắc Wales "hoàn toàn tách biệt" với Anh nhưng Edward xem ông là "một kẻ nổi loạn và gây lộn xộn của hòa bình". Quyết tâm, kinh nghiệm quân sự và diễn tập hải quân khéo léo của Edward đã chấm dứt cuộc nổi loạn của anh. Cuộc xâm lược được thực hiện bởi một trong những đội quân lớn nhất từng được một vị vua Anh tập hợp, bao gồm kỵ binh Anglo–Norman và cung thủ xứ Wales và đặt nền móng cho những chiến thắng trong tương lai ở Pháp. Llywelyn bị đuổi vào vùng núi, sau đó qua đời trong trận chiến. Đạo luật Rhuddlan đã thiết lập quyền lực của Anh đối với xứ Wales và con trai của Edward được tuyên bố là Thân vương xứ Wales đầu tiên khi sinh ra. Edward đã chi một khoản tiền lớn cho hai chiến dịch chiếm đóng Wales của mình với một phần lớn trong số đó dành cho một mạng lưới các lâu đài.
Edward khẳng định rằng nhà vua Scotland nợ ông trung thành phong kiến, và có ý định hợp nhất hai quốc gia bằng cách kết hôn với con trai Edward với Margaret, người thừa kế duy nhất của vua Alexander III. Khi Margaret qua đời vào năm 1290, cuộc cạnh tranh giành vương miện Scotland đã xảy ra. Theo lời mời của đầu nậu Scotland, Edward Tôi giải quyết tranh chấp, cầm quyền ủng hộ John Balliol, người trung thành uỷ thề với anh và trở thành vua. Edward khăng khăng rằng ông là chủ quyền Scotland và sở hữu quyền nghe lời kêu gọi chống lại bản án Balliol của, phá hoại chính quyền Balliol của. Balliol liên minh với Pháp năm 1295; Edward xâm chiếm Scotland vào năm sau, phế truất và lưu đày Balliol.
Edward đã không thành công ở Gasingham, nơi bị Pháp chiếm đóng. Khi nguồn tài nguyên của mình cạn kiệt, Edward buộc phải xác nhận lại các Điều lệ, bao gồm Magna Carta, để có được số tiền cần thiết. Năm 1303, nhà vua Pháp đã khôi phục Gasingham cho Edward bằng cách ký Hiệp ước Paris. Trong khi đó, William Wallace đã đứng tên của Balliol và đã phục hồi hầu hết Scotland. Wallace bị đánh bại trong Trận Falkirk, sau đó Robert the Bruce nổi loạn và lên ngôi vua của Scotland. Edward đã qua đời khi đang đến đến Scotland cho một chiến dịch khác.
Lời thề đăng quang của Vua Edward II về sự kế vị của ông vào năm 1307 là lần đầu tiên phản ánh trách nhiệm của nhà vua trong việc duy trì luật pháp mà cộng đồng "sẽ chọn" (aura eslu trong tiếng Pháp). Ông không được ưa chuộng ban đầu nhưng phải đối mặt với ba thách thức: bất mãn về tài chính của các cuộc chiến tranh; chi tiêu hộ gia đình của mình; và vai trò của Piers yêu thích của anh ấy. Khi Nghị viện quyết định rằng ông nên bị lưu đày, nhà vua không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ. Edward đã thúc đẩy sự trở lại của Gôgôn, nhưng bị buộc phải đồng ý với việc bổ nhiệm Ordainers, dẫn đầu bởi anh em họ Thomas, Bá tước thứ 2 của Lancaster, để cải tổ gia đình hoàng gia với Piers Gaveston bị lưu đày một lần nữa. Khi trở về nước Anh một lần nữa, anh bị bắt cóc và bị xử tử sau một phiên tòa giả. Sự phân nhánh của điều này đã đẩy Thomas và các tín đồ của ông khỏi quyền lực. Thất bại nhục nhã của Edward trước Bruce trong Trận Bannockburn, khẳng định vị trí của Bruce là một vị vua độc lập của Scotland, dẫn đến việc Lancaster được bổ nhiệm làm người đứng đầu hội đồng của nhà vua. Cuối cùng Edward đã bãi bỏ Pháp lệnh sau khi đánh bại và điều hành Lancaster tại Trận Boroughbridge năm 1322.
Chế độ quân chủ Pháp khẳng định quyền của mình là xâm phạm các quyền hợp pháp của Edward ở Gascony. Kháng cự với một phán quyết ở Saint–Sardos dẫn đến việc Charles IV tuyên bố bị tịch thu công tước. Chị gái của Charles, Vương hậu Isabelle, được phái đến để đàm phán và đồng ý một hiệp ước yêu cầu Edward phải tỏ lòng tôn kính ở Pháp với Charles. Edward đã từ chức Aquitaine và Ponthieu cho con trai Edward, người đã tới Pháp để tỏ lòng tôn kính. Với người thừa kế tiếng Anh trong sức mạnh của mình, Isabelle từ chối trở lại đội tuyển Anh trừ khi Edward II đã bác bỏ yêu thích của mình, và cô đã trở thành tình nhân của Roger Mortimer. Hai vợ chồng xâm chiếm nước Anh và cùng với Henry, Bá tước thứ 3 của Lancaster, chiếm được nhà vua. Edward II thoái vị với điều kiện con trai ông sẽ được thừa kế ngai vàng chứ không phải là Mortimer. Mặc dù không có ghi chép lịch sử nào về nguyên nhân cái qua đời, nhưng ông được cho là đã bị sát hại tại lâu đài Berkeley bằng cách đâm một viên xi–lanh nóng đỏ vào ruột của mình. Một cuộc đảo chính của Edward III đã chấm dứt bốn năm kiểm soát của Isabella và Mortimer. Mortimer đã bị xử tử. Mặc dù bị loại khỏi quyền lực, Isabella vẫn được đối xử tốt và sống xa hoa trong 27 năm tiếp theo.
Xung đột với Vương tộc Valois
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1328, Charles IV của Pháp qua đời mà không có người thừa kế nam. Vương hậu Isabelle đã tuyên bố lên ngôi Quốc vương Pháp thay mặt cho con trai bà là Edward, với lý do ông là cháu trai theo đằng ngoại của Philippe IV của Pháp. Tuy nhiên, tiền lệ được thiết lập bởi sự kế vị của Philip V đối với cháu gái là Juana II của Navarra và việc Charles IV kế vị các cháu gái của ông có nghĩa là cháu trai cả của Philippe III trong dòng dõi nam, Phillippe của Valois đã trở thành vua. Khi chưa nắm quyền, Edward đã tỏ lòng tôn kính Phillippe với tư cách là Công tước xứ Aquitaine.
Năm 1337 Phillip đã tịch thu Aquitaine và Ponthieu từ Edward với cáo buộc ông đang chứa chấp người anh em họ và kẻ thù chạy trốn của Phillip, Robert của Artois. Đáp lại, Edward tự xưng là vua của Pháp để khuyến khích người Flemish nổi dậy công khai chống lại nhà vua Pháp. Cuộc xung đột, sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm, bao gồm một chiến thắng quan trọng của hải quân Anh trong Trận Sluys[31], và chiến thắng trên đất liền tại Crécy, để Edward tự do chiếm được cảng Calais quan trọng. Chiến thắng tiếp theo trước Scotland tại Trận chiến Neville's Cross đã dẫn đến việc bắt giữ David II và làm giảm mối đe dọa từ Scotland. Cái qua đời đen đã ngăn chặn các chiến dịch của Edward bằng cách giết qua đời một phần ba đối tượng của mình.[31] Người thuộc dòng họ Plantagenet duy nhất được biết là đã qua đời vì Cái qua đời đen là con gái của Edward III, Joan xứ Bordeaux.[31]
Hậu duệ của Edward III
[sửa | sửa mã nguồn]Cuộc hôn nhân của Edward III và Philippa xứ Hainault đã sinh ra mười ba người con và ba mươi hai người cháu:
- Edward (1330–1376) kết hôn với Joan của Kent, cháu gái của Edward I và có hai con trai:
- Edward (1365–1371 / 2)
- Richard (1367–1400)
- Isabella (1332–1382), kết hôn với Enguerrand II, Lord xứ Coucy và có hai cô con gái:
- Marie
- Philippa
- Joan (1335–1348)
- William (1334/6 –1337)
- Lionel (1338 –1368) Một người con gái với Elizabeth de Burgh:
- Philippa (1355 –1378 / 81) thông qua Philippa, Nhà York, theo quan hệ họ hàng, khẳng định rằng yêu sách của họ đối với ngai vàng cao hơn Nhà Lancaster. Cháu gái và người thừa kế của Philippa, Anne Mortimer kết hôn với Richard xứ Conisburgh, Bá tước thứ 3 xứ Cambridge, người thừa kế của Công tước xứ York. Các bá tước xứ Northumberland và Clifford, những người ủng hộ đáng kể của Vương tộc Lancaster trong Chiến tranh Hoa Hồng, là hậu duệ của Philippa thông qua người con gái khác của bà là Elizabeth Mortimer.
- John xứ Gaunt (1340–1399) kết hôn với Blanche xứ Lancaster, người thừa kế của công tước xứ Lancaster và là hậu duệ trực tiếp của Henry III, và có sáu người con:
- Philippa (1360–1415) lấy Juan I của Bồ Đào Nha.
- John (khoảng 1362/1364) mất khi còn là một người trẻ sơ sinh.
- Elizabeth (1364–1426), kết hôn với John Hastings, Bá tước thứ 3 của Pembroke, John Holland, Công tước thứ nhất của Exeter và John Cornwall, Nam tước thứ nhất, tương ứng.
- Edward xứ Lancaster (1365–1365)
- John xứ Lancaster (1366), mất khi còn là một người trẻ sơ sinh.
- Henry (1367–1413)
- Isabella xứ Lancaster (sinh năm 1368), mất khi còn khi còn nhỏ.
Sau cái qua đời của Blanche năm 1369, John kết hôn với Constanza của Castilla, cố gắng không thành công để có được ngai vàng Castilla. Cuộc hôn nhân sinh ra hai người con:
- Catherine xứ Lancaster (1372–1418) vợ của Enrique III của Castilla, và là cụ của Catalina của Aragón, người vợ đầu tiên của Henry VIII của Anh.
- John (1374–1375)
Constanza qua đời vào năm 1394, sau đó John kết hôn với Katherine Swynford vào ngày 13 tháng 1 năm 1396. Bốn người con của họ được sinh ra trước khi họ kết hôn. Giáo hoàng đã hợp pháp hóa họ vào năm 1396, cũng như Richard II đã làm hiến chương với điều kiện là con cái của họ không được lên ngôi:
- John (khoảng 1371/72–1410), ông của Margaret Beaufort, mẹ của Henry VII.
- Henry (1375 –1447)
- Thomas (1377 –1427)
- Joan (1379–1440) con trai của Joan, Richard Neville, Bá tước thứ 5 của Salisbury và cháu trai của bà, Richard Neville, Bá tước thứ 16 của Warwick, là những người ủng hộ hàng đầu của Nhà York.
- Edmund (1341–1402) Người sáng lập Nhà York. Ông có ba người con với Isabel của Castilla:
- Edward (1373 –1415) bị giết trong trận Agincourt.
- Constance (1374–1416)
- Richard (1375–1415)
- Blanche (1342) Mất khi còn nhỏ.
- Mary xứ Waltham (1344–1362) Giáp lấy John V, Công tước xứ Bretagne. Không có con cái.
- Margaret (1346–1361), kết hôn với John Hastings, Bá tước thứ 2 của Pembroke. Không có con cái.
- Joan (sinh năm 1351)
- Thomas (1355–1394) Ám sát hoặc bị xử tử vì tội phản quốc theo lệnh của Richard II; Con gái ông, Anne, cưới Edmund Stafford.
Triều đại lâu dài của Edward đã tạo nên một bản sắc dân tộc mới, được củng cố với việc tiếng Anh trung đại bắt đầu được coi là ngôn ngữ nói và viết của chính phủ. Do đó, về mặt văn hóa, ông được nhiều nhà sử học coi là người cai trị 'Anh' đầu tiên sau cuộc chinh phục.
Sự chấm dứt của dòng chính
[sửa | sửa mã nguồn]Con trai mười tuổi của Vương tử đen đã nối ngôi với tư cách là Richard II của Anh sau cái qua đời của ông nội, trên danh nghĩa thực hiện tất cả các quyền lực của vương quyền được hỗ trợ bởi các hội đồng khác nhau. Chính phủ của ông đánh thuế bầu cử để tài trợ cho các chiến dịch quân sự và kết hợp với tình trạng nghèo nàn của nền kinh tế dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân vào năm 1381, sau đó là những cuộc trả thù tàn bạo chống lại phiến quân.
Chú của nhà vua Thomas của Woodstock, Công tước thứ nhất của Gloucester, Richard FitzAlan, Bá tước thứ 11 của Arundel và Thomas de Beauchamp, Bá tước thứ 12 của Warwick, được biết đến với tư cách là Lãnh chúa của Chúa khi họ tìm cách luận tội năm vị vua yêu thích và kiềm chế ngày càng được coi là sự cai trị chuyên chế và thất thường. Sau đó, họ được tham gia bởi Henry Bolingbroke, con trai và người thừa kế của John xứ Gaunt, và Thomas de Mowbray, Công tước thứ nhất của Norfolk. Ban đầu, họ đã thành công trong việc thành lập một ủy ban để cai trị nước Anh trong một năm, nhưng họ buộc phải nổi dậy chống lại Richard, đánh bại một đội quân dưới quyền của Robert de Vere, Bá tước xứ Oxford, tại cuộc giao tranh của cầu Radcot.
Richard đã được giảm xuống một con số với sức mạnh nhỏ. Kết quả của Nghị viện Merciless, de Vere và Michael de la Pole, Bá tước thứ nhất của Suffolk, người đã trốn ra nước ngoài, đã bị kết án tử hình khi vắng mặt. Alexander Neville, Tổng Giám mục York, đã bị tịch thu tất cả tài sản của mình. Một số hội đồng của Richard đã bị xử tử. Khi John của Gaunt trở về từ Tây Ban Nha, Richard đã có thể thiết lập lại quyền lực của mình, khiến Gloucester bị sát hại khi bị giam cầm ở Calais. Warwick bị tước danh hiệu. Bolingbroke và Mowbray bị lưu đày.
Khi John xứ Gaunt qua đời vào năm 1399, Richard đã tước quyền thừa kế của con trai John là Henry, người đã xâm lược Anh để đáp trả bằng một lực lượng nhỏ nhưng nhanh chóng tăng về số lượng. Gặp ít sự kháng cự, Henry phế truất Richard để tự mình lên ngôi vua Henry IV của Anh. Richard qua đời trong cảnh giam cầm vào đầu năm sau đó, có thể là bị sát hại, và qua đó chấm dứt dòng dõi Plantagenet chính. Không ai trong số những người thừa kế của Henry thoát khỏi sự thách thức với lý do không phải là người thừa kế thực sự của Richard II, và triều đại Lancaster đã giành được ngai vàng bằng một hành động cướp ngôi.[32]
Niên đại của các quân chủ Plantaganet
[sửa | sửa mã nguồn]Gia phả
[sửa | sửa mã nguồn]- Gia phả này bao gồm những thành viên được chọn của Vương tộc Plantagenet được tính là hợp pháp.[33]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Plant, John S. (2007). "The Tardy Adoption of the Plantagenet Surname". Nomina. 30: 57–84. ISSN 0141-6340”.
- ^ “Keefe, Thomas K (2008). "Henry II (1133–1189)". Oxford Dictionary of National Biography (online ed.). Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12949”.
- ^ BlockmansHoppenbrouwers 2014, tr. 173
- ^ Gillingham 2007a, tr. 15–23
- ^ Power 2007, tr. 85–86
- ^ Warren 1991, tr. 228–229
- ^ Davies 1997, tr. 190
- ^ Gillingham 2001, tr. 11–12, 120
- ^ Schama 2000, tr. 117
- ^ Gillingham 2001, tr. 15
- ^ Gillingham 2001, tr. 15–18
- ^ Gillingham 2001, tr. 18
- ^ Warren 1973, tr. 45–46
- ^ Gillingham 2001, tr. 21
- ^ Weir 2008, tr. 60–61
- ^ Gillingham 2001, tr. 19–20
- ^ Gillingham 2010
- ^ Gillingham 2010
- ^ Ridgeway 2010
- ^ Gillingham 2010
- ^ Barratt 2003, tr. 75–100
- ^ Turner & Heiser 2014, tr. 48
- ^ Gillingham 2001, tr. 103
- ^ Strickland 2010
- ^ Gillingham 2010
- ^ Seabourne, G. (2007). “Eleanor of Brittany and her Treatment by King John and Henry III”. Nottingham Medieval Studies. LI: 73–110. doi:10.1484/J.NMS.3.408.
- ^ Gillingham 2010
- ^ Weir 2008, tr. 74
- ^ “The official website of the British Monarchy”. The Angevins. The Royal Household. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
- ^ Prestwich 2008
- ^ a b c Ormrod 2008
- ^ Tuck 2009
- ^ Weir 2008, tr. 57–145
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Cái tên Plantagenet được ghi chép trong các tài liệu tiếng Anh theo nhiều cách khác nhau như là Plantaganet, Plantagenett, Plantagenette, Plantaginet, Plantagynett, v.v...
- ^ For instance, David Crouch in William Marshal: Court, Career, and Chivalry in the Angevin Empire, 1147–1219 (Longman, 1990); Ralph V. Turner and Richard Heiser in The Reign of Richard Lionheart: Ruler of The Angevin Empire, 1189–1199 (Routledge, 2000)
Nguồn tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Abulafia, D. S. H (2004). “Isabella (1214–1241)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14482. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Anon (2004). “Monarchs of England (924x7–1707)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/92701. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Barber, Richard (2008). “Edward, prince of Wales and of Aquitaine (1330–1376)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8523. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Barratt, Nick (2003). “The Revenues of King John and Philip Augustus Revisited”. Trong Church, S. D. (biên tập). King John: New Interpretations. Boydell & Brewer Ltd. ISBN 978-0-85115-947-8.
- Bent, Samuel Arthur (1887). Familiar Short Sayings of Great Men, with Historical and Explanatory Notes by Samuel Arthur Bent. Boston: Ticknor and Co.
- Blockmans, Wim; Hoppenbrouwers, Mark (2014). Introduction to Medieval Europe, 300–1500 (ấn bản thứ 2). Abingdon, UK: Routledge. ISBN 978-1-317-93425-7.
- Brown, A. L.; Summerson, Henry (2010). “Henry IV (1367–1413)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12951. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Carpenter, Christine (2008). “Edward, styled earl of Warwick (1475–1499)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8525. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Carpenter, David (2007). “King Henry III and Saint Edward the Confessor: The Origins of the Cult”. English Historical Review. CXXII (498). doi:10.1093/ehr/cem214. JSTOR 4493985.
- Cooper, J. P. D. (2008). “Henry Courtenay (1498/9–1538)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/6451. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Cunningham, Sean (2004a). “Pole, Richard de la (d. 1525)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/22458. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Cunningham, Sean (2008). “Pole, Edmund de la, eighth earl of Suffolk (1472?–1513)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/22446. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Davies, C. S. L. (1977). Peace, Print & Protestantism 1450–1558. Hart-Davis, McGiven. ISBN 978-0-00-686354-0.
- Davies, C. S. L. (2008). “Edward Stafford (1478–1521)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/26202. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Davies, Norman (1997). Europe – A History. Pimlico. ISBN 0-7126-6633-8.
- Davies, Norman (1999). The Isles – A History. MacMillan. ISBN 0-333-76370-X.
- Gillingham, John (1985). “The art of Kingship: Richard I 1189–99”. History Today. 35.
- Gillingham, John (2001). The Angevin Empire. Arnold. ISBN 0-340-74115-5.
- Gillingham, John (2007a). “Doing Homage to the King of France”. Trong Harper-Bill, Christopher; Vincent, Nicholas (biên tập). Henry II: New Interpretations. Woodbridge, UK: Boydell Press. ISBN 978-1-84383-340-6. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
- Gillingham, John (2009). “Richard I (1157–1199)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23498. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Gillingham, John (2010). “John (1167–1216)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14841. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Goodman, Anthony (2004). “Katherine (1372–1418)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/48316. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Griffiths, R. A. (2015). “Henry VI (1421–1471)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12953. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Gunn, S. J. (2009). “Henry VII (1457–1509)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12954. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Hallam, Elizabeth (2004). “Eleanor, countess of Pembroke and Leicester (1215?–1275)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/46703. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Hamilton, J. S. (2008). “Gaveston, Piers, earl of Cornwall (d. 1312)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/10463. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Harriss, G.L. (2011). “Humphrey, duke of Gloucester (1390–1447)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14155. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Harriss, G.L. (2012). “Richard, earl of Cambridge (1385–1415)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23502. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Hatcher, John (2002). “The Great Slump of the Mid-Fifteenth Century”. Trong Britnell, Richard; Hatcher, John (biên tập). Progress and Problems in Medieval England: Essays in Honour of Edward Miller. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-52273-1.
- Hicks, Michael (2012). The Wars of the Roses. New Haven and London: Yale University Press. ISBN 978-0-300-18157-9.
- Horrox, Rosemary (2013). “Richard III (1452–1485)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23500. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Horrox, Rosemary (2004). “Pole, John de la, earl of Lincoln (c.1460–1487)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/22449. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Horrox, Rosemary (2011). “Edward IV (1442–1483)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8520. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Jones, Michael (2008). “Margaret, duchess of Burgundy (1446–1503)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/18051. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Keefe, Thomas K (2008). “Henry II (1133–1189)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12949. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Kelsey, Sean (2008). “Wilson, Thomas)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/29690. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Lovatt, Marie (2007). “Geoffrey (1151?–1212)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/10535. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Maddicott, J.R. (2008). “Thomas of Lancaster, second earl of Lancaster, second earl of Leicester, and earl of Lincoln (c.1278–1322)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/27195. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- McKisack, M. (1959). The Fourteenth Century: 1307–1399. Oxford University Press. ISBN 0-19-821712-9. OCLC 183353136.
- Mortimer, Ian (2003). The Greatest Traitor: The Life of Sir Roger Mortimer, Ruler of England: 1327–1330. Thomas Dunne Books. ISBN 0-312-34941-6.
- Mortimer, Ian (2008). The Fears of Henry IV: The Life of England's Self-made King. Random House. ISBN 978-1-84413-529-5.
- Norgate, Kate (2004). “Joan (d. 1237))”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14819. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Norgate, Kate (2004b). “Matilda, duchess of Saxony (1156–1189)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/18339. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Ormrod (2008). “Edward III (1312–1377)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8519. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Phillips, J. R. S. (2008). “Edward II (1284–1327)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8518. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Pierce, Hazel (2015). “Pole, Margaret, suo jure countess of Salisbury (1473–1541))”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/22451. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Plant, John S. (2007). “The Tardy Adoption of the Plantagenet Surname”. Nomina. 30: 57–84. ISSN 0141-6340.
- Power, Daniel (2007). “Henry, Duke of the Normans (1149/50–1189)”. Trong Harper-Bill, Christopher; Vincent, Nicholas (biên tập). Henry II: New Interpretations. Woodbridge, UK: Boydell Press. ISBN 978-1-84383-340-6. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
- Prestwich, Michael (2008). “Edward I (1239–1307)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/8517. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Public Records Office (1870). Calendar of State Papers, Domestic Series, of the Reigns of Edward VI, Mary, Elizabeth, 1547–1580: Elizabeth 1601–1603; with addenda, 1547–1565. Longman, Brown, Green, Longmans, & Roberts. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
- Ridgeway, H. W. (2010). “Henry III (1207–1272)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12950. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Riley-Smith, Jonathan (1987). The Crusades: A Short History. Yale University Press. ISBN 978-0-300-04700-4.
- Runciman, Steven (1987). A History of the Crusades, Volume 3. CUP Archive. ISBN 978-0-521-34772-3.
- Starkey, David (2009). Henry. Harper Perennial. ISBN 978-0-00-724772-1.
- Schama, Simon (2000). A History of Britain – At the Edge of the world. BBC. ISBN 0-563-53483-4.
- Strickland, Matthew (2010). “Longespée, William (I), third earl of Salisbury (b. in or before 1167, d. 1226)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/16983. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Stringer, Keith (2004). “Joan (1210–1238)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14820. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Tuck, Anthony (2009). “Richard II (1367–1400)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23499. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Turner, Ralph V; Heiser, Richard (2014). The Reign of Richard Lionheart: Ruler of The Angevin Empire, 1189–1199. Routledge. ISBN 978-1-317-89042-3.
- Vincent, Nicholas (2008). “Richard, first earl of Cornwall and king of Germany (1209–1272)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23501. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Wagner, John (2001). Encyclopedia of the Wars of the Roses. ABC-CLIO. ISBN 1-85109-358-3.
- Walker, Simon (2008). “John, duke of Aquitaine and duke of Lancaster, styled king of Castile and León (1340–1399)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/14843. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Warren, W. L. (1973). Henry II. University of California Press. ISBN 978-0-520-02282-9. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015.
- Warren, W. L. (1991). King John. London: Methuen. ISBN 0-413-45520-3. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
- Watts, John (2011). “Richard of York, third duke of York (1411–1460)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/23503. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Waugh, Scott L. (2006). “Henry of Lancaster, third earl of Lancaster and third earl of Leicester (c.1280–1345)”. Oxford Dictionary of National Biography . Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/12959. (yêu cầu Đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh.)
- Weir, Alison (2008). Britain's Royal Families. Vintage. ISBN 978-0-09-953973-5.