Bước tới nội dung

Enka

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Diễn ca (演歌 (Diễn Ca) Enka?) là một thể loại nhạc Nhật nổi tiếng. Dù người ta có cần cân nhắc để xếp nó vào một kiểu âm nhạc truyền thống, nhạc diễn ca hiện đại có liên quan đến một loại nhạc mới phát sinh ra từ khung cảnh của một sự bóp ép ngay sau chiến tranh của một loại nhạc Nhật không dùng nhạc cụ theo chủ nghĩa dân tộc như nihonjinron, trong khi chọn nhiều hơn một loại nhạc truyền thống nhiều hơn loại nhạc ryūkōka nổi tiếng vào trước chiến tranh trong nghệ thuật múa hát.

Thuật ngữ "diễn ca" được dùng để tham khảo các văn bản chính trị để sắp đặt nhạc hát và phân loại giữa hai phe đối lập nhau thuộc về Tự do và hành động đúng đắn của con người suốt thời Meiji (từ năm 1868–1912) với ý nghĩa là phớt lờ sự hạn chế của chính trị trên tốc độ bất đồng quan điểm chính trị - và trong ý thức này, từ nhận được trong từ "enzetsu no uta" (演説の歌) có nghĩa là "bài hát diễn thuyết".

Nhạc diễn ca hiện đại, đã được phát triển trong thời sau chiến tranh, là một loại nhạc ba-lê uỷ mị. Một trong các ca sĩ nhạc diễn ca đầu tiên là Hachiro Kasuga, Michiya MihashiHideo Murata. Có một học thuyết cho rằng nhạc diễn ca hiện đại có nghĩa là "enjiru uta" (演じる歌), có nghĩa là "bài hát được trình diễn". Thời phục hưng của nhạc diễn ca ở dạng hiện đại bắt đầu từ một ngày vào năm 1969, khi Keiko Fuji bắt đầu trình diễn.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Văn phong: Ryūkōka • Rōkyoku • Min'yō • Tango • Blues
  • Văn hoá: Nhật Bản vào năm 1950. Cái tên bắt nguồn từ một loại nhạc vào cuối thế kỉ mười chín.
  • Các nhạc cụ đặc trưng: Đàn tranh koto • Guitar • Guitar bass • Trống thùng • Đàn Piano • Kèn Saxophone • Kèn Trumpet • Kèn Trombone • Shamisen • Shakuhachi
  • Nguồn phổ biến chính: Nguồn phổ biến rộng lớn vào những ngày cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70.

Loại âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài hát Nhật đầu tiên sử dụng một nhánh của nguồn nhạc Diễn ca hiện đại gọi là "Yonanuki Tan-Onkai" (ヨナ抜き短音階) hay là "nốt nhỏ không có điểm thứ bốn và thứ bảy (re và sol)", người ta nói đó là bài hát của Rentarō Taki, là "Kōjō no Tsuki", còn được gọi là "shōka" (唱歌: xướng ca) hay "bài hát của trường" vào thời Meiji. Không có trường độ nốt thứ bảy trong bài hát B nhỏ bé "Kōjō no Tsuki".

Nốt nhạc là một hình ảnh hỗn loạn của "Yonanuki Chō-Onkai" (ヨナ抜き長音階) hay còn gọi là "Nốt nhạc khổng lồ không có điểm thứ Bốn và thứ Bảy (fa và ti)", bắt nguồn từ một trong những nốt nhạc trước đó của Nhật Bản, "Nốt Ryo" (呂音階 Ryo Onkai: lữ âm giai).

Âm nhạc, được hình thành dựa trên nốt nhạc, có một vài điểm giống nhau so với nhạc blue, mà đã được một ca sĩ diễn ca người Mỹ gốc Nhật, là Jero để ý đến. Lời nhạc của diễn ca thường là về chủ đề tình yêu và sự thất bại, cô đơn, các khó khăn lâu dài, và kiên nhẫn đối mặt với khó khăn, cho dù mình bắt buộc phải tự tử hoặc phải chết. Dù diễn ca là một thể loại Kayõkyoku, nó lại được xem như là rất có ý nghĩa và giàu cảm xúc, dù nó không có sự nhất trí rõ ràng trong vấn đề.

Các ca sĩ diễn ca bình thường sử dụng một loại nhạc gọi là Kobushi. Kobushi xuất hiện khi cao độ của giọng ca sĩ dao động không đều đến trường độ nốt, được so sánh với một hiệu ứng âm nhạc, mà rung động theo một chu kỳ bình thường. Kĩ thuật Kobushi không hề giới hạn đến diễn ca, khi bạn nghe bài hát "Sant Lucia" của Ý. Vào cuối thập niên 30 và đầu thập niên 40, nhạc của nhà soạn nhạc Masao Koga có thể bắt đầu có ảnh hưởng đến các bài tụng kinh của Phật giáo Shomyo vì yêu cầu của giải thưởng âm nhạc này đòi hỏi ông sáng tác loại nhạc này. Dù Koga trở thành một nhà soạn nhạc, làm việc để suy xét để sản sinh ra sự sáng tạo cho thể loại này, nhạc diễn ca hiện đại hoàn toàn khác dòng nhạc đầu tiên của Koga vì kiểu hát của các ca sĩ sau chiến tranh khác xa kiểu nốt Kobushi của Koga. Một ca sĩ diễn ca hiện đại, Takeshi Kitayama đã nói:" Tôi hoàn toàn bối rối vì âm nhạc của ông ấy [ám chỉ Koga] hoàn toàn khác ca sĩ khác".

Nhạc diễn ca cũng được cho là truyền thống, lý tưởng hoá, hay hướng đến tiểu thuyết hoá trong văn hoá và quan điểm của Nhật Bản. Ca sĩ diễn ca, đa số là phụ nữ, thường hay trình diễn trong trang phục kimono, hay trong váy ngủ. Phần biểu diễn của các ca sĩ diễn ca nam thường hướng về trang phục hình thức, hay trong một số buổi diễn, là quần áo truyền thống của Nhật. Những cách gật đầu theo truyền thống Nhật Bản thường phổ biến trong nhạc diễn ca. Giai điệu của nhạc diễn ca chủ yếu là hoà âm kiểu Tây, nhưng nhạc cụ bao gồm shakuhachi và shamisen, khiến nó có vẻ "Nhật" hơn.

Thể loại này được gọi là diễn ca và cũng được nói là một sự phân loại thích hợp cho giải thưởng âm nhạc cũng như nhạc J-pop. Ví dụ, Harumi Miyako, người đã được công nhận là một ca sĩ diễn ca, đã nói rằng:" Tôi không nghĩ rằng mình đã từng hát nhạc diễn ca" và "Thật sự, lúc đó tôi không cảm nhận được một chút điều kiện diễn ca nào cả khi tôi trình diễn".

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thế kỉ 19 đến thập niên 20: Tráng sĩ diễn ca và violin diễn ca

[sửa | sửa mã nguồn]

Một bài hát chính trị được gọi là diễn ca vào thời Meiji (từ năm 1868 đến 1912) cũng được gọi là Tráng sĩ Diễn ca(壮士演歌), có các nét riêng biệt so với nhạc diễn ca hiện đại. Các ca sĩ đường phố được gọi là "Diễn ca sư" (演歌師 - enka-shi). Bài hát diễn ca đầu tiên được nói đến là "Thuốc nổ bushi" (ダイナマイト節). Các bài hát trong thời điểm này bao gồm cả bài "Oppekepe bushi" của Otojiro Kawakami.

Vào thời Taishō (từ năm 1912 đến năm 1926), các Diễn ca sư bắt đầu sử dụng violin và các bài hát của họ được gọi là "Violin Diễn ca". Một trong các Diễn ca sư thời đó là Toshio Sakurai (桜井敏雄), học trò của Haruo Oka.

Vào thời hiện đại của Nhật Bản ngày đó, đường Giao thông Luật Lệ đã có quy định cho các nghệ sĩ đường phố. Dù vậy, các nghệ sĩ đường phố Nhật Bản như Utaji Fukuoka (福岡詩二) vẫn hát diễn ca từ thời Taishō. Khi trận động đất Hanshin khổng lồ xảy ra vào năm 1995, thì Soul Flower Mononoke Summit, một dự án đặc biệt của một nhóm nhạc rock tên là Soul Flower Union, chơi tráng sĩ diễn ca để động viên tinh thần các nạn nhân của trận động đất.

Thập niên 20 đến thập niên 40: Kỉ nguyên của ryūkōka

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào những ngày đầu thời Shōwa vào khoảng cấu thập niên hai mươi, các hãng ghi âm đã sáng tạo ra ryūkōka ở nơi của một nghệ sĩ đường phố gọi là diễn ca sư. Nói cách khác, các diễn ca sư đã bắt đầu sử dụng ghi-ta và họ đã lồng tiếng cho "Nagashi" (流し). Haruo Oka đã trình diễn khéo léo một bài hát của năm 1939: "Kokkyō no Haru" (国境の春, nghĩa là "Mùa xuân ở biên giới"), dưới giải thưởng âm nhạc 'King Record". Nhưng sau đó, thuật ngữ "diễn ca" đã trở nên hiếm hoi vào thời sau chiến tranh

Năm cuối của thập niên 40 đến năm 1954: Xuất hiện các ca sĩ mới

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào những ngày đầu sau chiến tranh, nhạc jazz đã trở nên nổi tiếng. Các ca sĩ nữ người Nhật như Hibari Misora đã cho ra đời bài hát của mình, "Kappa boogie-woogie" dưới giải thưởng Nippon Columbia vào năm 1949 khi mới 12 tuổi. Cô ấy trở nên nổi tiếng vì hát nhạc jazz vào thập niên 50 và 60.

Vào năm 1948, Hachiro Kasuga vượt qua vòng đầu của King Records. Ông đăng ký dự thi một giải thưởng âm nhạc vào năm 1949. Trong giải đấu của King Records, Haruo Oka là tiền bối của Kasuga. Bài đơn ca "Akai Lamp no Shū Ressha" (赤いランプの終列車, có nghĩa là "Cơn mưa cuối cùng với chiếc đèn đỏ") đã ra mắt vào năm 1952. Bài hát "Otomi-san" (お富さん, có nghĩa là "Quý cô Otomi") theo phong cách Kabuki lúc đầu được làm cho Oka, nhưng người hát là Kasuga chứ không phải là Oka. Vào năm 1954, bài hát "Otomi-san" của Kasuga đã trở thành một trong các bài hát nổi tiếng nhất của Nhật Bản. Kasuga là một phần của cuộc thi NHK Kōhaku Uta Gassen lần đầu tiên cùng với bài hát "Otomi-san" vào năm 1954. Người soạn ra bài hát này, Masanobu Tokuchi, sinh ra ở đảo Okinawa và lớn lên ở Amami, đã trở thành một nhân vật quan trọng trong việc giới thiệu âm nhạc của đảo Ryukyu vào nguồn nhạc chính yếu nổi tiếng của Nhật Bản.

Từ năm 1955 đến năm 1959: Những trang đầu lịch sử nhạc diễn ca hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]

Dù bài "Otomi-san" đã trở nên nổi tiếng, Hachiro Kasuga vẫn chưa hài lòng với nó và bài Wakare no Ippon-sugi" (別れの一本杉, nghĩa là "Vĩnh biệt cây tuyết tùng") được sáng tác bởi Toru Funamura. Bài hát ra đời vào năm 1955 và được xem như một bài nhạc diễn ca thực sự. Có điều, bài hát bị ảnh hưởng bởi vần điệu của nhạc tango, vì Funamura cảm thấy rằng nhạc tango có xuất thân giống như nhạc diễn ca. Sau này, bài "Wakare no Ippon-sugi" được một số các ca sĩ như Michiya Mihashi, Hideo Murata, Keiko Fuji, Hibari Misora, Saburō Kitajima, Takashi Hosokawa và Hiroshi Itsuki trình diễn lại. Sau này, Kasuga được gọi là ca sĩ diễn ca đầu tiên. Có điều, Kimio Takano, bạn của Funamura, người soạn lời cho bài hát, đã chết vào năm 1956 khi vừa 26 tuổi. Michiya Mihashi, ca sĩ hát nhạc folk min'yō kiểu Nhật và đã học tsugaru-jamisen, đã cho ra đời đĩa đơn về bản ghi âm bài hát của ông, bài "Sake no Nigasa yo", ra đời vào năm 1954. Bài "Onna Sendō Uta" của Mihashi đã trở thành một bài đỉnh vào năm 1955. Nhạc của Hibari Misora trở thành nhạc diễn ca khi cô không còn được công nhận là một ca sĩ tuổi teen nữa.

Vào khoảng thời gian sau chiến tranh, rōkyoku (naniwa-bushi), là thứ rất nổi tiếng trong chiến tranh không còn nổi tiếng nữa vì lời thoại được quan tâm quá nhiều. Diễn ca, thứ nổi tiếng trong khoảng thời gian đó, được cho rằng là một phiên bản ngắn của rōkyoku vì vài ca sĩ diễn ca như Hideo Murata và Haruo Minami lúc đầu là ca sĩ nhạc rōkyoku, sau này là diễn ca có nhiều khúc nhạc giống như rōkyoku. Một trong các ca sĩ rōkyoku nổi tiếng mà có tầm ảnh hưởng đến nhạc diễn ca là Kumoemon Tochuken, là người đã dạy cho Murata. Minami trình diễn dưới giải thưởng Teichiku vào năm 1957 và Murata trình diễn dưới giải thưởng Nippon Columbia vào năm 1958. Murata trình diễn lại bài "Nhân sinh kịch trường" (人生劇場 Jinsei Gekijō, nghĩa là "Vở kịch cuộc đời"), được sàng tác bởi Masao Koga. Haruo Minami thường mặc kimono, là trang phục cổ xưa và hơi bất thường với một ca sĩ nam giới.

Thập niên 60: Cuộc thương mại thành công

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào những năm đầu thập niên 60, nhạc rockabilly chịu ảnh hưởng bởi Elvis Presley bắt đầu tăng tính đại chúng lên. Kyu Sakamoto, là một ca sĩ nhạc rockabilly người Nhật, tham gia vào dòng âm nhạc nổi tiếng của Nhật. Nhưng, nhiều nhà phê bình nhạc Nhật đã than phiền về loại âm nhạc rockabilly và bài hát "Ōsho" của Hideo Murata, được Toru Funamura sáng tác vào năm 1961, mang phong cách "nhạc Nhật nguyên chất", đã bán được hàng triệu bản thu âm đơn ở Nhật. Khi Kyu Sakamoto tham gia vào cuộc thi Kōhaku Uta Gassen lần đầu cùng với bài hát "Ue o Muite Arukō" (tức là "Sukiyaki") vào năm 1961, Hideo Murata cũng trình diễn khéo léo bài hát "Ōsho" cũng trong chương trình đó.

Ca sĩ diễn ca trẻ tuổi Yukio Hashi bắt đầu sự nghiệp vào năm 1960, Saburō Kitajima bắt đầu vào năm 1962, và Harumi Miyako bắt đầu vào năm 1964. Sachiko Kobayashi cũng bắt đầu vào năm 1964, cùng với bài hát "Usotsuki Kamome" (ウソツキ鴎, nghĩa là "Lời nói dối ngờ nghệch"), khi chỉ mới 10 tuổi. Người được biết đến nhiều nhất và là người trình diễn nhạc diễn ca được yêu thích nhất là Hibari Misora (1937 đến 1989), được biết đến là "Nữ hoàng diễn ca" và "Nữ hoàng Shōwa" trong thời cô sống và nổi tiếng. Bài "Yawara" của Misora, được sáng tác bởi Masao Koga, đã thắng giải thưởng lớn, giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản vào năm 1965. Masaru Matsuyama cũng bắt đầu sự nghiệp vào năm 1965, nhưng không đạt được thành công trong buôn bán, và ông đã đổi tên mình trên sân khấu thành Hiroshi Itsuki vào năm 1971.

Mina Aoe bắt đầu sự nghiệp cùng với bài hát "Kōkotsu no Blues" (恍惚のブルース, có nghĩa là "Màu xanh ngây ngất") vào năm 1966, mở đường cho loại nhạc "diễn ca-blues". Shinichi Mori bắt đầu từ năm 1966 cùng với bài hát "Onna no Tameiki" (女のためいき, nghĩa là "Khát khao của người phụ nữ"). Bài hát năm 1969 của ông, "Minatomachi Blues" (港町ブルース, nghĩa là "Cảng biển xanh") đứng đầu biểu đồ đơn Oricon trong năm tuần và bản hơn một triệu bản sao. Keiko Fuji bắt đầu từ năm 1969 cùng với bài hát "Shinjuku no Onna" (新宿の女, có nghĩa là "Người con gái ở Shinjuku") khi 18 tuổi. Thuật ngữ "diễn ca", từ mà vẫn không được dùng từ hồi sau chiến tranh, đã trở lại trong phần biểu diễn của cô ấy.

Thập niên 70: Giữ vững độ nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài hát năm 1970, "Keiko no Yume wa Yoru Hiraku" của Keiko Fuji, thắng giải nổi tiếng toàn thể của giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 12 và giải thưởng âm nhạc đầu tiên của Giải nhạc Nhật. Năm 1970, cô ấy đứng hạng 21 trong cuộc thi Kōhaku Uta Gassen cùng bài hát của mình. Cuốn album "Shinjuku no Onna/ 'diễn ca no Hoshi' Fuji Keiko no Subete" (新宿の女/ "演歌の星" 藤圭子のすべて, Người phụ nữ ở Shinjuku/ Ngôi sao diễn ca, Tất cả là của Keiko Fuji) của cô ra đời vào năm 1970, đã có rất nhiều uy tín và vẫn liên tục đứng thứ nhất trong biểu đồ Oricon trong 20 tuần "liên tục".

Bài diễn ca bán chạy nhất sau biểu đồ Oricon bắt đầu vào năm 1968 là bài hát năm 1972, "Onna no Michi" của Shiro Miya và Pinkara Trio. Bài hát đứng đầu trên bản Oricon Nhật Bản trong 16 tuần liên tục và bán hơn 3,25 triệu bản sao, trở thành bài hát bán chạy thứ hai ở Nhật Bản, sau bài "Oyoge! Taiyaki-kun".

Bài "Yozora" của Hiroshi Itsuki thắng giải lớn ở Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 15 vào năm 1973. Nói theo cách khác thì Shinichi Mori đã cho ra đời ca khúc "Erimo Misaki" vào năm 1974. Dù bài hát được sáng tác bởi một nhạc sĩ không sử dụng diễn ca như Takuro Yoshida, "Erimo Misaki" vẫn thắng giải ở Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 16 của năm đó. Bài "Kita no Yado kara" của Harumi Miyako cũng đã thắng giải trong Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 18 vào năm 1976. Một ca sĩ diễn ca mới, người bắt đầu sự nghiệp vào thập niên 70, bao gồm Sayuri IshikawaTakashi Hosokawa. Ishikawa và Hosokawa là học trò của Michiya Mihashi.

Masao Koga chết vào năm 1978, sau khi đã sáng tác khoảng 5000 bài hát. Toru Funamura trở thành một nhân viên tự túc vào năm 1978, bắt đầu sống, trình diễn, và trở lại vị trí của người bạn mình, Kimio Takano. Keiko Fuji tuyên bố nghỉ hưu vào năm 1979 và đến Mĩ.

Thập niên 80: Mất định nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài hát "Kita Sakaba" của Takashi Hosokawa thắng giải ở Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần 24 vào năm 1982. Bài "Yagiri no Watashi" của ông cũng đoạt giải ở Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 25 vào năm 1983. Tổng số lượng hàng bán của Michiya Mihashi vượt qua 100 triệu bản thu âm vào năm 1983, và điều đó khiến ông trở thành nghệ sĩ đầu tiên ở Nhật Bản giành được điều đó.

Vào ngày 11 tháng 6 năm 1986, Sanae Jōnouchi, một thành viên của nhóm nhạc Onyanko Club nổi tiếng, cho ra đời ca khúc "Ajisai Bashi", được viết bởi Yasushi Akimoto. Ca khúc đạt được vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Ca khúc đơn "Yukiguni" của Ikuzo Yoshi đứng đầu thứ 300 trong bảng xếp hạng Oricon vào năm 1987.

Các ca sĩ diễn ca ở khoảng thời gian đó, bao gồm Fuyumi Sakamoto và Ayako Fuji. Hibari Misora cho ra đời ca khúc "Midaregami" vào ngày 10 tháng 12 vào năm 1987 lúc 50 tuổi. "Midaregami" ở vị trí số 9 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Yasushi Akimoto viết lời cho bài hát vào năm 1989 của bà, "Kawa no Nagare no Yō ni". Có điều, bà chết vào năm 1989, và loại nhạc diễn ca mở rộng ra thành nhạc kayōkyoku trong khi nhạc kayōkyoku đang biến mất dần.

Thập niên 90: Suy tàn

[sửa | sửa mã nguồn]

Hachiro Kasuga mất vào năm 1991. Nhạc diễn ca bị mất định nghĩa trong việc buôn bán và nhạc J-pop kiểu Tây trở nên nổi tiếng hơn. Đề tài diễn ca truyền thống không còn được giới trẻ Nhật Bản đánh giá cao nữa. Nhưng loại âm nhạc này vẫn còn được nhiều người ủng hộ. Ngoài trên các chương trình ti vi ra, người ta còn có thể nghe diễn ca ở nhiều nhà hàng, các cơ sở, quán karaoke. Nói cách khác, các ca sĩ diễn ca theo dòng nhạc "sáng" như Yoshimi Tendo, người thường bị những người theo dòng nhạc "tối" lờ đi như bài hát "Keiko no Yume wa Yoru Hiraku" của Keiko Fuji đã trở nên nổi tiếng, và đã tham dự vào cuộc thi Kōhaku Uta Gassen lần đầu tiên vào năm 1993.

Năm 2000: Nhạc công lai

[sửa | sửa mã nguồn]

Độ yêu thích nhạc diễn ca theo giới trẻ Nhật Bản được tăng lên vào năm 2000. Kiyoshi Hikawa bắt đầu sự nghiệp dưới giải Nippon Columbia vào năm 2000 với ca khúc "Hakone Hachiri no Hanjirō", đã trở thành một thành công lớn. Sau đó, màn độc diễn sớm được một thành viên của Morning Musume, Yuko Nakazawa cũng hát nhạc diễn ca. Trái ngược lại, Nana Mizuki, người đã học diễn ca từ thời thơ ấu, đã trở thành một diễn viên lồng tiếng, hay seiyū, cũng bắt đầu sự nghiệp ca sĩ dưới giải thưởng King vào năm 2000.

Vào ngày 25 tháng 8 năm 2004, nhóm Kanjani Eight của Johnny & Associates bắt đầu xây dựng sự nghiệp cùng với giới hạng Kansai cho ra mắt bài "Naniwa Iroha Bushi" trong giải thưởng Teichiku. Bài hát được hình thành dựa trên "Kawachi ondo" và đề cao nhạc rap. Bài hát đã rất thành công và đạt vị trí số 8 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần, trên sự dẻo dai của Kansai và đã bán đĩa đơn. Sau đó, vào ngày 22 tháng 9, năm 2004, bài "Naniwa Iroha Bushi" được tung ra toàn quốc và lại có mặt trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần ở vị trí số 1, trở thành ca sĩ diễn ca đầu tiên đạt vị trí số một trong suốt 17 năm từ khi bài hát năm 1987, "Kita no Tabibito" của Yujiro Ishihara, theo như lời của Oricon.

Hikawa cũng cho ra bài hát "Hatsukoi Ressha" vào ngày 9 tháng 2 năm 2005, giành vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. "Hatsukoi Ressha" đã trở thành bài hát số một đầu tiên của ông trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Các ca sĩ nữ lớn tuổi như Junko Akimoto, cũng xuất thân từ giải thưởng King, cho ra bài hát đầu tiên của cô, "Madison-gun no Koi" vào ngày 21 tháng 7 năm 2005. Có điều, kiểu âm nhạc của cô là kiểu kayōkyoku của thập niên 70. Ca sĩ diễn ca kì cựu, Hiroshi Itsuki cho ra bài hát "Takasebune" vào ngày 19 tháng 4 năm 2006 khi 58 tuổi. "Takasebune" trở thành bài hát đầu tiên của ông lọt vào Top 10 bài hát trong 22 năm từ bài "Nagaragawa diễn ca" vào năm 1984, dành vị trí số 9 trên bảng xếp hạng Oricon.

Bài "Ikken" của Hikawa thắng giải trong Giải thưởng Âm nhạc Nhật Bản lần thứ 48 vào ngày 30 tháng 12 năm 2006. Nói cách khác, Kanjani Eight đã thay đổi giải thưởng Đế quốc nhạc pop/ rock, cái tên phụ của giải thưởng Teichiku, vào năm 2007.

Junko Akimoto cho ra đời bài hát "Ai no Mama de…" vào ngày 23 tháng 1 năm 2008, đã đứng đầu bảng xếp hạng Oricon hàng tuần vào tháng 1 năm 2009, và cô trở thành ca sĩ đơn ca lớn tuổi nhất trên bảng xếp hạng khi 61 tuổi. Trong năm đó, Hikawa cho ra đời hai bài hát số một liên tiếp, là "Ryōkyoku Ichidai" và "Tokimeki no Rumba" trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Bài hát năm 2009, "Asia no Kaizoku" của Fuyumi Sakamoto, được sáng tác bởi Ayumi Nakamura, là một bài hát diễn ca có nét đặc trưng của nhạc rock. Sakamoto nói rằng:" Nếu Ayumi hát bài này, nó sẽ là một bài nhạc rock. Nếu tôi hát bài này, dù sao đi chăng nữa, nó vẫn là nhạc diễn ca".

Vào ngày 1 tháng 1 năm 2010, ca sĩ 73 tuổi Saburō Kitajima cho ra bài hát "Phu phụ nhất sinh" (夫婦一生 Fūfu Isshō, nghĩa là "Cặp đôi trong cuộc đời"). Bài hát dành vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần, khiến ông trở thành ca sĩ đơn ca đầu tiên vào top 10 từ thập niên 70 của ông. Sau khi Fuyumi Sakamoto xuất hiện trên chương trình ti vi của Masahiro Nakai, Nakai Masahiro no Kinyōbi no Sumatachi e vào ngày 19 tháng 3 năm 2010, hai bài hát đơn phía A của cô, là bài "Mata Kimi ni Koi Shiteru và Asia no Kaizoku" đã lần đầu được vào top 10, đạt hạng 9 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Bài hát nằm trong Top 10 đầu tiên của cô đã được 21 năm kể từ khi bài "Otoko no Jōwa" ra mắt, bài đã đứng vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Oricon vào năm 1989.

Nổi tiếng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Jero, ca sĩ người Mỹ gốc châu Phi cũng đi theo thể loại này. Tiếp đến ca sĩ diễn ca không có quốc tịch Nhật Bản đầu tiên là Sarbjit Singh Chadha, đến từ Ấn Độ. Album diễn ca đầu tiên của ông được ra đời vào năm 1975 và trở nên một thành công ở Nhật Bản, bán được hơn 150,000 bản sao. Một vài năm sau đó, ông trở về Ấn Độ, nhưng đã trở lại Nhật vào năm 2008.

Diễn ca được coi như là một thứ gì đó pha trộn giữa nhạc Tango Phần Lan và giai điệu âm nhạc truyền thống tại Phần Lan.

Năm 2002, Yolanda Tasico trở thành ca sĩ diễn ca người Filipina đầu tiên ở Philippines đến Nhật với ca khúc "Shiawase ni Naroo", "Nagai Aida", và còn rất nhiều bài khác nữa.

Ở Mĩ, Diễn ca rất nổi tiếng ở một số khu vực (tiêu biểu là những vùng lâu năm) có dân cư là người Mỹ gốc Nhật, và diễn ca có rất nhiều người hâm mộ không phải là người Nhật. Có nhiều buổi hoà nhạc diễn ca và những người trình diễn ở Mĩ, như ban nhạc San Jose Chidori, thỉnh thoảng trình diễn ở lễ hội O-Bon vào mùa hè. Năm 2008, Jero trở thành ca sĩ diễn ca da đen đầu tiên bắt đầu sự nghiệp với bài hát "Hải Tuyết" (海雪 - UmiYuki, nghĩa là "Biển tuyết"), được viết bởi Yasushi Akimoto, và đã giành vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Oricon, và quần áo thì mang phong cách hip-hop đường phố

Các ca sĩ Diễn ca

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Akemi Misawa
  • Akemi Mizusawa
  • Aki Yashiro
  • Akira Kobayashi (cũng là một diễn viên)
  • Akira Mita
  • Asami Mori
  • Asami Hayashi
  • Atsumi Hirohata
  • Aya Shimazu
  • Ayako Fuji
  • Ayako Yashio
  • Cheuni
  • Chikai Oka
  • Chiyuki Asami
  • Chiyoko Shimakura
  • Đặng Lệ Quân (Ca sĩ Đài Loan)
  • Eigo Kawashima
  • Eiko Segawa
  • Eisaku Ōkawa
  • Etsuko Shimazu
  • Frank Nagai
  • Fumiko Utagama
  • Fuyumi Sakamoto [1]
  • Genta Chiba
  • Gorō Kagami
  • Hachiro Izawa
  • Hachiro Kasuga
  • Haruka Yabuki
  • Haruo Minami
  • Harumi Miyako
  • Hibari Misora
  • Hideo Murata
  • Hiroko Hattori
  • Hiroko Matsumae
  • Hiroshi Itsuki
  • Hiroshi Kadokawa
  • Hiroshi Kanō
  • Hiroshi Mizuhara
  • Hiroshi Moriya
  • Hiroshi Takeshima
  • Hiroyuki Nishikata
  • Hitomi Ayase
  • Hitomi Matsunaga
  • Hitomi Shimatani
  • Ichiro Toba
  • Ikuzo Yoshi
  • Jero
  • Jirō Atsumi
  • Jirō Kanmuri
  • Jōji/George Yamamoto
  • Junko Ishihara
  • Kanjani Eight (một nhóm nhạc)
  • Kaori Kōzai
  • Kaori Mizumori
  • Kaori Uesugi
  • Katsuki Nana
  • Kazuha Yasuda
  • Kazuko Mifune
  • Kazuo Chiba
  • Kazuo Funaki
  • Kazusa Wakayama
  • Keiko Fuji
  • Keiko Matsuyama
  • Keisuke Hama
  • Kenichi Mikawa
  • Kenji Niinuma
  • Kim Yonja
  • Kiyoko Suizenji
  • Kiyoshi Hikawa [2]
  • Kiyoshi Maekawa
  • Koji Tsuruta (Cũng là một diễn viên)
  • Komadori Shimai
  • Kōtarō Satomi
  • Kumi Iwamoto
  • Kye Eun-sook
  • Machiko KitanoMadoka Ōishi
  • Maeda Yuki (hát nhạc diễn ca truyền thống và có ảnh hưởng đến nhạc diễn ca hiện đại)
  • Maiko Takigawa
  • Maki Kotomi
  • Masako Mori
  • Masao Sen
  • Maya Sakura
  • Meiko Kaji (Cũng là một diễn viên)
  • Michiya Mihashi
  • Midori Kayama
  • Midori Sasa
  • Mieko Makimura
  • Mika Shinno
  • Mika Tachiki
  • Mina Aoe
  • Mitsuko Nakamura
  • Miyako Ōtsuki
  • Miyuki Kawanaka
  • Miyuki Nagai
  • Murakami Sachiko
  • Naomi Chiaki
  • Natsuko Godai
  • Nobue Matsubara
  • Osamu Miyaji
  • Ōizumi Itsurō
  • Reiko Izuhara
  • Rikuo Kadowaki
  • Rimi Natsukawa [3]
  • Ryotarō Sugi
  • Saburō Kitajima [4]
  • Sachiko Kobayashi [5]
  • Sanae Jōnouchi
  • Saori Hara
  • Sarbjit Singh Chadha
  • Satomi Kojō
  • Sayuri Ishikawa [6]
  • Shin Kōda
  • Shinichi Mori [7]
  • Shinji Tanimura [8]
  • Shinobu Otowa
  • Shirakawa Chiemi
  • Shirō Miya
  • Shohei Naruse
  • Takao Horiuchi
  • Takashi Hosokawa
  • Takeo Fujishima
  • Takuya Jo
  • Takeshi Kitayama
  • Teruhiko Saigo
  • Teruhisa Kawakami
  • Tetsuya Gen
  • Toshie Fujino
  • Toshimi Tagawa
  • Tsuzuko Sugawara
  • Vanesa Oshiro
  • Yolanda Tasico
  • Yoshimi Tendō
  • Yoshio Tabata
  • Yōko Nagayama
  • Youko Masaki
  • Yujiro Ishihara
  • Yuki Maeda
  • Yukio Hashi
  • Yuri Harada [9]
  • Yutaka Yamakawa
  • Yuki Nagaho
  • Yuuki Nishio
  • Yuuko Maki
  • Yuko Nakazawa
  • Yuuko Oka

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “坂本冬美オフィシャルサイト”. 坂本冬美オフィシャルサイト. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.
  2. ^ http://columbia.jp/~hikawa/
  3. ^ [https://web.archive.org/web/20090121174303/http://www.rimirimi.jp/free/ “�Đ��� �I�t�B�V�����T�C�g”]. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  4. ^ “北島三郎|北島音楽事務所”. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.
  5. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2012.
  6. ^ “石川さゆりオフィシャルウェブサイト”. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.
  7. ^ [http://www.jvcmusic.co.jp/mori/ “�X�i������z�[���y�[�W”]. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  8. ^ “谷村新司 Shinji Tanimura Official Site”. 谷村新司. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.
  9. ^ “原田悠里|北島音楽事務所”. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.