Bước tới nội dung

Pháp danh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do 103.7.36.56 (thảo luận) sửa đổi vào lúc 14:24, ngày 9 tháng 9 năm 2019. Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Pháp danh theo Phật giáo Đại thừa của người Việttên đặt cho một người theo đạo Phật chịu làm lễ quy y và thọ năm giới căn bản gồm:

  1. Không sát sanh
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không nói dối
  5. Không uống rượu

Khi quy y, tín đồ nguyện sống theo đạo lý của nhà Phật. Người nào dù không đi tu mà phát nguyện theo Tam bảo đều được ban pháp danh.

Pháp danh là do vị chứng giám đặt cho người thụ lễ như một thể thức truyền thừa cho đệ tử một lý tưởng chung. Vì vậy pháp danh thường chiếu theo một hệ thống rút từ kinh điển ví dụ như một bài kệ, một câu kinh, dùng một chữ chung khởi đầu. Những chữ thường dùng là Huệ, Diệu, Tâm, Trí, Tuệ với ý nghĩa cao đẹp.

Pháp danh được dùng trong mọi việc giữa cá nhân đó và nhà chùa từ lúc sinh thời cho đến sau khi mất.

Phân loại: pháp danh, pháp tự, pháp hiệu

Theo Phật giáo thì cần phân biệt pháp danh, Pháp tựPháp hiệu. Người Phật tử nhận pháp danh khi thụ năm giới; nhận Pháp tự khi thụ 10 giới; và Pháp hiệu khi làm tỳ kheo tức xuất gia đi tu.[1] Nam giới thì lấy thêm họ "Thích" còn nữ giới lấy "Thích Nữ" để nhắc nhở mối ràng buộc trực tiếp với đức Thích Ca. Lệ này có từ thế kỷ thứ IV do thiền sư Đạo An người Trung Hoa khởi xướng. Tuy nhiên đối với người Việt thì Pháp hiệu với chữ "Thích" thì đến thế kỷ XX mới thịnh hành.[2]

Pháp hiệu cũng do vị sư chứng giám đặt cho người đi tu. Tăng ni khi nhận một vị thầy khác cũng có thể nhận pháp danh và pháp hiệu mới.

Thể thức tên gọi, Pháp danh, Pháp tự và Pháp hiệu
Thế danh Pháp danh Pháp tự Pháp hiệu
Nguyễn Văn Kỉnh Trừng Thông Chơn Thường Thích Tịnh Khiết
Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN
Lâm Văn Tuất Thị Thủy Hành Pháp Thích Quảng Đức[3]
Đỗ Thị Cửu Nguyên Huệ Diệu Định Thích Nữ Diệu Định[4]
Lê Đình Nhàn Như An (1935)
Ngọc Tân (1937)
Tịnh Bạch Thích Huyền Quang
Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN[5]
Nguyễn Xuân Bảo Trừng Quang Phùng Xuân Thích Nhất Hạnh

"Pháp danh" trong những truyền thống khác

Trung Hoa những người theo đạo Lão như các đạo sĩ cũng có pháp danh. Tăng ni Phật giáo thì thường dùng danh từ "pháp hiệu".

Nhật Bản thì tương đương pháp danh là "giới danh" (戒名, kaimyō). Ai quá cố cũng được nhà chùa ban cho giới danh để dùng khi cúng lễ.

Tham khảo

Chú thích