Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành viên:CalCoWSpiBudSu/nháp”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 56: Dòng 56:
=== Phản ứng ===
=== Phản ứng ===
{{Quote box|width=250px|align=left|salign=right|class=letterhead|border=none|quote=Việt Cộng đã trinh sát kỹ lưỡng nơi này. Họ biết hầu hết Trung đoàn đã đi, họ biết chính xác phòng vũ khí ở đâu, họ biết chính xác tòa nhà nào mà các sĩ quan ngủ và hướng đến đó. Sự việc này thực sự khiến người [miền Nam] Việt Nam bối rối.|author=Thư của Trưởng nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam [[:en:Samuel Tankersley Williams|Samuel Williams]] gửi cho cấp dưới.<ref>{{harvnb|Toczek|2001|p=12}}</ref><ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=344}}</ref>}}
{{Quote box|width=250px|align=left|salign=right|class=letterhead|border=none|quote=Việt Cộng đã trinh sát kỹ lưỡng nơi này. Họ biết hầu hết Trung đoàn đã đi, họ biết chính xác phòng vũ khí ở đâu, họ biết chính xác tòa nhà nào mà các sĩ quan ngủ và hướng đến đó. Sự việc này thực sự khiến người [miền Nam] Việt Nam bối rối.|author=Thư của Trưởng nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam [[:en:Samuel Tankersley Williams|Samuel Williams]] gửi cho cấp dưới.<ref>{{harvnb|Toczek|2001|p=12}}</ref><ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=344}}</ref>}}
Sự kiện tập kích đã gây sốc cho chính phủ [[Ngô Đình Diệm]] và các cố vấn Mỹ, một nghiên cứu đến từ [[Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn|Đại sứ quán Hoa Kỳ]], [[:en:Military Assistance Advisory Group|Phái bộ Cố vấn Hỗ trợ Quân sự]] (MAAG) và [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] về những tác động của trận chiến đã khuyến nghị [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|quân đội miền Nam]] cần được huấn luyện về [[chiến tranh du kích]] để đối phó lại mối đe dọa ngày càng tăng đến từ lực lượng cộng sản.<ref>{{harvnb|Spector|1983|p=338–39}}</ref> Các cơ quan này nhận định cuộc tấn công là một "minh họa ấn tượng" về "chiến thuật ngày càng hung hãn của Việt Cộng", qua đó bộc lộ rõ những vấn đề khó khăn mà quân đội Sài Gòn gặp phải trong quá trình "kiểm soát tình hình an ninh nội bộ".<ref name="emi">{{harvnb|Glennon|1986|p=303}}</ref> Vụ việc đã chứng tỏ "sự táo bạo", "khả năng Việt Cộng xâm nhập vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa" và có dấu hiệu cho thấy quân cách mạng được "một số người dân địa phương bí mật hỗ trợ".<ref name="emi"/> Cuộc đột kích và các hành động tương tự khác xảy ra vào đầu năm 1960 khiến Đại sứ quán Mỹ kết luận rằng vấn đề nổi dậy đã leo thang từ một mối đe dọa tiềm ẩn lâu dài nay trở thành "vấn đề số 1" đối với nền nội các Diệm.<ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=300}}</ref> [[:en:William Colby|William Colby]] – Trưởng trạm CIA tại Sài Gòn và sau này là Giám đốc Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (DCI), cho biết: "vào đầu năm 1960, miền Nam Việt Nam đã bắt đầu cảm giác — và nhận thấy — kết quả của chiến dịch tổ chức và chiêu mộ cộng sản",<ref>{{harvnb|Colby|McCargar|1989|p=69}}</ref> việc một trung đoàn của chính phủ miền Nam bị tấn công bất ngờ đã "gây ra nỗi sợ hãi trong giới Sài Gòn."<ref>{{harvnb|Colby|McCargar|1989|p=72–73}}</ref> Trong bức thư cá nhân do tướng [[:en:Samuel Tankersley Williams|Samuel Williams]] – Cố vấn Trưởng Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, gửi cho đồng nghiệp cũ nhận định rằng "sự trắng trợn của cuộc công kích này đã gây chấn động tận gốc rễ người [miền Nam] Việt Nam".<ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=344}}</ref> Lần đầu tiên quân đội cộng sản đã tập kích thành công vào một cơ sở quân sự cấp [[trung đoàn]] của [[Việt Nam Cộng hòa|chính quyền Sài Gòn]],<ref>{{harvnb|Tran|2022|p=134}}</ref><ref>{{harvnb|Hồ Sơn Đài|Trần Phấn Chấn|Trần Thị Nhung|1994|p=131}}</ref><ref name="bqp2">{{harvnb|Lê Chiêm|2020}}</ref> và đây cũng chính là trận đánh lớn đầu tiên thu được nhiều vũ khí nhất của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam kể từ thời điểm ký kết [[Hiệp định Genève 1954|hiệp định đình chiến]].<ref>{{harvnb|Nguyễn Ngọc Mai|Nguyễn Đức Minh|Nguyễn Minh Giang|Nguyễn Minh Thức|Nguyễn Quang Huy|2012|p=110}}</ref><ref>{{harvnb|Thạch Phương|Nguyễn Trọng Minh|2005|p=902}}</ref><ref>{{harvnb|Viện Lịch sử Quân sự|2005|p=117}}</ref><ref>{{harvnb|Trần Quỳnh Cư|Nguyễn Hữu Đạo|Đỗ Thị Nguyệt Quang|Nguyễn Tố Uyên|Lưu Thị Tuyết Vân|2004|p=193}}</ref> Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng mở đầu cho [[Phong trào Đồng khởi|cao trào Đồng khởi]] ở [[Nam Bộ]].<ref>{{harvnb|Nguyễn Duy Hùng|Lê Văn Yên|Vũ Quang Hiển|Vũ Thị Thấm|Võ Văn Bé|Lê Quang Lạng|Nguyễn Thị Hương|Ngô Quốc Đông|2010|p=325, 330}}</ref><ref name="bqp1">{{harvnb|Ngô Xuân Lịch|2020}}</ref><ref>{{harvnb|Vũ Ngọc Lân|2000|p=41}}</ref>
Sự kiện tập kích đã gây sốc cho chính phủ [[Ngô Đình Diệm]] và các cố vấn Mỹ, một nghiên cứu đến từ [[Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn|Đại sứ quán Hoa Kỳ]], [[:en:Military Assistance Advisory Group|Phái bộ Cố vấn Hỗ trợ Quân sự]] (MAAG) và [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Cơ quan Tình báo Trung ương]] về những tác động của trận chiến đã khuyến nghị [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|quân đội miền Nam]] cần được huấn luyện về [[chiến tranh du kích]] để đối phó lại mối đe dọa ngày càng tăng đến từ lực lượng cộng sản.<ref>{{harvnb|Spector|1983|p=338–39}}</ref> Các cơ quan này nhận định cuộc tấn công là một "minh họa ấn tượng" về "chiến thuật ngày càng hung hãn của Việt Cộng", qua đó bộc lộ rõ những vấn đề khó khăn mà quân đội Sài Gòn gặp phải trong quá trình "kiểm soát tình hình an ninh nội bộ".<ref name="emi">{{harvnb|Glennon|1986|p=303}}</ref> Vụ việc đã chứng tỏ "sự táo bạo", "khả năng Việt Cộng xâm nhập vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa" và có dấu hiệu cho thấy quân cách mạng được "một số người dân địa phương bí mật hỗ trợ".<ref name="emi"/> Cuộc đột kích và các hành động tương tự khác xảy ra vào đầu năm 1960 khiến Đại sứ quán Mỹ kết luận rằng vấn đề nổi dậy đã leo thang từ một mối đe dọa tiềm ẩn lâu dài nay trở thành "vấn đề số 1" đối với chính phủ nền [[Đệ Nhất Cộng hòa (Việt Nam Cộng hòa)|Đệ Nhất Cộng hòa]].<ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=300}}</ref> [[:en:William Colby|William Colby]] – Trưởng trạm CIA tại Sài Gòn và sau này là [[:en:Director of Central Intelligence|Giám đốc Tình báo Trung ương Hoa Kỳ]] (DCI), cho biết: "vào đầu năm 1960, miền Nam Việt Nam đã bắt đầu cảm giác — và nhận thấy — kết quả của chiến dịch tổ chức và chiêu mộ cộng sản",<ref>{{harvnb|Colby|McCargar|1989|p=69}}</ref> việc một trung đoàn của chính phủ miền Nam bị tấn công bất ngờ đã "gây ra nỗi sợ hãi trong giới Sài Gòn."<ref>{{harvnb|Colby|McCargar|1989|p=72–73}}</ref> Trong bức thư cá nhân do tướng [[:en:Samuel Tankersley Williams|Samuel Williams]] – Cố vấn Trưởng Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, gửi cho đồng nghiệp cũ nhận định rằng "sự trắng trợn của cuộc công kích này đã gây chấn động tận gốc rễ người [miền Nam] Việt Nam".<ref>{{harvnb|Glennon|1986|p=344}}</ref> Lần đầu tiên quân đội cộng sản đã tập kích thành công vào một cơ sở quân sự cấp [[trung đoàn]] của [[Việt Nam Cộng hòa|chính quyền Sài Gòn]],<ref>{{harvnb|Tran|2022|p=134}}</ref><ref>{{harvnb|Hồ Sơn Đài|Trần Phấn Chấn|Trần Thị Nhung|1994|p=131}}</ref><ref name="bqp2">{{harvnb|Lê Chiêm|2020}}</ref> và đây cũng chính là trận đánh lớn đầu tiên thu được nhiều vũ khí nhất của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam kể từ thời điểm ký kết [[Hiệp định Genève 1954|hiệp định đình chiến]].<ref>{{harvnb|Nguyễn Ngọc Mai|Nguyễn Đức Minh|Nguyễn Minh Giang|Nguyễn Minh Thức|Nguyễn Quang Huy|2012|p=110}}</ref><ref>{{harvnb|Thạch Phương|Nguyễn Trọng Minh|2005|p=902}}</ref><ref>{{harvnb|Viện Lịch sử Quân sự|2005|p=117}}</ref><ref>{{harvnb|Trần Quỳnh Cư|Nguyễn Hữu Đạo|Đỗ Thị Nguyệt Quang|Nguyễn Tố Uyên|Lưu Thị Tuyết Vân|2004|p=193}}</ref> Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng mở đầu cho [[Phong trào Đồng khởi|cao trào Đồng khởi]] ở [[Nam Bộ]].<ref>{{harvnb|Nguyễn Duy Hùng|Lê Văn Yên|Vũ Quang Hiển|Vũ Thị Thấm|Võ Văn Bé|Lê Quang Lạng|Nguyễn Thị Hương|Ngô Quốc Đông|2010|p=325, 330}}</ref><ref name="bqp1">{{harvnb|Ngô Xuân Lịch|2020}}</ref><ref>{{harvnb|Vũ Ngọc Lân|2000|p=41}}</ref>


Cuộc tập kích là một màn thất bại đáng kinh ngạc của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|quân đội quốc gia Sài Gòn]] sau năm năm nhận viện trợ và đào tạo của Hoa Kỳ.
Cuộc tập kích là một màn thất bại đáng kinh ngạc của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|quân đội quốc gia Sài Gòn]] sau năm năm nhận viện trợ và đào tạo của Hoa Kỳ.

Phiên bản lúc 04:37, ngày 28 tháng 10 năm 2024

Mở đầu

Đây là tài liệu không ghi ngày tháng của phe Cộng sản bị quân đội Hoa Kỳ tìm thấy ở tỉnh Phước Long, miền Nam Việt Nam vào ngày 28 tháng 4 năm 1969.[1] Có khả năng được viết bởi một thành viên của Xứ ủy Nam Bộ.[2]

Trận đồn Tua Hai là trận giao tranh quan trọng đầu tiên trong Chiến tranh Việt Nam . Phe nổi dậy Việt Nam những năm 1960 nhìn chung coi trận đánh là sự khởi đầu của cuộc chiến, trận đánh lớn đầu tiên, điển hình cho nhiều trận đánh khác sau này. Trong trận đánh, một nhóm du kích từ tỉnh Tây Ninh đã phục kích được sở chỉ huy Trung đoàn 32 của QLVNCH [4] , tiêu diệt nhiều quân địch, thu giữ một lượng lớn tiếp tế và đốt cháy trại. Mặc dù là một sự kiện quan trọng nhưng ngày nay trận chiến phần lớn bị lãng quên , đặc biệt là ở bên ngoài Việt Nam . Có những báo cáo trái ngược nhau về số lượng nạn nhân; hậu quả chủ yếu là về mặt tâm lý.

Vào thời điểm diễn ra trận chiến, Ngô Đình Diệm đã lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa được gần sáu năm. Trong thời gian này có nhiều biến động và bất ổn trong nước. Năm 1954, Diệm được Hoàng đế Bảo Đại nhận làm thủ tướng . Chưa đầy một năm sau, cuộc giao tranh đầu tiên nổ ra ở Sàigòn khi Diệm cố gắng hạn chế quyền lực của ba giáo phái lớn trong nước. Diệm phải tập hợp ba sư đoàn để phá vỡ sự kháng cự của họ. [5] Nhưng bằng việc tiêu diệt các đạo Cao Đài , Bình Xuyên và Hòa Hảo, ông đã gây ra sự thù hận của các thành viên giáo phái mà những người ủng hộ cộng sản bất ngờ xuất hiện.

Tiền khởi nghĩa

Việt Nam 1959/1960

Sau khi quyền lực của các giáo phái bị suy giảm và phần lớn Việt Minh đã chạy sang miền Bắc Việt Nam , Diệm cố gắng phá hủy các cơ cấu còn lại của đảng cộng sản ở miền Nam. Năm 1955, một “chiến dịch tố cáo” bắt đầu nhằm mục đích đẩy Việt Nam vào tình trạng hỗn loạn. Hàng chục ngàn người bị tống vào nhà tù và trại tập trung. Không chỉ Việt Minh bị ảnh hưởng mà cả các lãnh đạo giáo phái, sinh viên, nhà báo phê bình, đảng viên nhỏ và đoàn viên công đoàn cũng bị ảnh hưởng. Một quy định được công bố vào giữa năm 1956 đe dọa bỏ tù bất kỳ ai có thể gây ra mối đe dọa cho nhà nước. Người đứng đầu hành chính và cấp tỉnh đã sử dụng quy định này để loại bỏ những cá nhân chống đối và đe dọa người dân nông thôn. Vào tháng 5 năm 1959, Diệm ban hành Luật khét tiếng 10/59, quy định việc thành lập các tòa án quân sự . Các bị cáo bị từ chối quyền có luật sư bào chữa độc lập và mức án duy nhất được đưa ra là tử hình hoặc tù chung thân . Từ năm 1955 đến năm 1960, người ta cho rằng có khoảng 150.000 tù nhân và hơn 12.000 người chết.

Dưới áp lực của người Mỹ, một cuộc cải cách ruộng đất đã được khởi xướng, nhưng điều này không thực sự dẫn đến việc người dân nông thôn đồng nhất với chế độ Diệm. Nhiều nông dân bị thu hồi đất đai và trả lại cho các đại địa chủ . Chính phủ đã lấy tổng cộng 650.000 ha đất, nhưng chỉ có 244.000 được phân phối lại. Kết quả là tỷ lệ người dân sở hữu đất đai giảm mạnh. Việc giảm phí thuê đất từ ​​50 xuống tối đa 25% sản lượng hầu như không cải thiện được hoàn cảnh của nông dân. Nhiều chủ đất lớn đã không tuân thủ và phải nộp thuế bất kể thu hoạch thực tế như thế nào. Trong những năm mất mùa, điều này đồng nghĩa với thảm họa đối với nhiều nông dân. Một yếu tố khác góp phần khiến Diệm không được lòng dân là việc bãi bỏ các cơ quan tự quản của làng. Thông qua hệ thống gia trưởng này, người dân có ảnh hưởng đến các vấn đề của thành phố và có thể, chẳng hạn, quyết định việc xây dựng đê và đường. Tuy nhiên, Diệm đã chuyển giao nhiệm vụ của các địa chủ lớn vào tay các quan chức chính phủ nước ngoài. Những người này thường đến từ phía bắc và không quen với điều kiện địa phương. Những biện pháp này làm suy yếu mạng lưới quan hệ truyền thống giữa địa chủ và nông dân và dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng sự đồng nhất với người dân nông thôn.

Sự bất mãn của người dân do chiến dịch tố cáo, đàn áp, cải cách ruộng đất và các hoạt động tái định cư bạo lực trên thực tế không hiệu quả là mảnh đất lý tưởng cho một cuộc nổi dậy. Sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian khi nào và ở đâu những cuộc đụng độ vũ trang đầu tiên sẽ xảy ra.

Tây Ninh

Tỉnh Tây Ninh của Việt Nam , nằm ngay sát biên giới Campuchia, phần lớn vẫn nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Sàigòn vào năm 1959. Vấn đề chính của QLVNCH không phải là quân nổi dậy mà là các băng đảng Campuchia liên tục vượt biên và cướp bóc nông dân địa phương . Để ngăn chặn sự xâm nhập của các băng nhóm và sự nổi lên của phong trào nổi dậy, sở chỉ huy Trung đoàn 32 và một tiểu đoàn của Sư đoàn 21 QLVNCH đã chiếm đóng pháo đài bỏ hoang Tua Hai của Pháp . Nó nằm cách Tây Ninh , thủ phủ của tỉnh cùng tên khoảng 5 km về phía bắc và cách Sàigòn khoảng 90 km về phía tây bắc . Pháo đài biên giới cũ có hình chữ nhật. Bức tường đất bao quanh nó cao khoảng hai mét rưỡi, phía trước đã dựng hàng rào dây thép gai cao 4-5 m. Có các vị trí súng máy ở bốn góc của pháo đài và có các boongke kiên cố dọc theo các bức tường. Nhưng một số công sự đã rơi vào tình trạng hư hỏng vì thấy không cần thiết phải sửa chữa. Ở một số nơi, hàng rào dây thép gai đã bị sập. Tuy nhiên, pháo đài vẫn là một tiền đồn đáng gờm của chính phủ.

Nhưng sự bất bình của người dân cũng gia tăng ở Tây Ninh. Lính QLVNCH thường lang thang khắp các làng và bắt những nông dân bị nghi ngờ có thiện cảm với Việt Minh trước đây. Về cơ bản, những người lính chỉ quan tâm đến việc có thể chuyển số lượng tù nhân cao nhất có thể cho chỉ huy tỉnh của họ. Bởi vì ông báo cáo về Sàigòn càng nhiều thì các cấp chỉ huy càng hài lòng với người chỉ huy và binh lính. Nhưng sự khủng bố của dân chúng ngày càng lớn hơn.

Quyết Thắng báo cáo: "...Chúng ta quyết định mở cuộc tấn công ngay trước Tết Nguyên đán , vào cuối tháng 2 năm 1960. Hoạt động khủng bố của địch đã lên đến đỉnh điểm vào những tuần trước đó. Trung đoàn đóng quân ở Tua Hai vừa trở về. từ một cuộc hành quân lớn, trong đó hàng trăm nông dân bị sát hại ở Tây Ninh...Họ bắt đầu cuộc hành quân lớn nhất vào cuối tháng Giêng không chỉ nhằm truy tìm tất cả các cựu thành viên của phong trào kháng chiến mà còn để tuyển mộ những người trẻ tuổi. , dũng sĩ của quân đội Hàng nghìn người bỏ chạy vào rừng, sau đó quân giặc cướp bóc các lán trại, mang đi hết lương thực, vật dụng sinh hoạt và còn lấy đi cả lễ vật mừng Tết Nguyên Đán... Dân chúng trở nên bàng hoàng, mất tinh thần, nhưng trong thâm tâm họ đang sôi sục giận dữ ... Chỉ có hai lựa chọn cho chúng tôi: hoặc là cầm vũ khí hoặc để mình bị tàn sát như những con gà."

Một yếu tố khác có lợi cho những người kháng chiến. Trụ sở của Cao Đài đặt tại tỉnh Tây Ninh. Đây là một giáo phái do thương gia người Pháp Vân Trung thành lập. Tại thủ phủ tỉnh cùng tên, Tây Ninh, doanh nhân thông minh đã xây dựng một nhà thờ dành cho vị cao nhất trong giáo phái của mình. Ông chỉ định Chúa Kitô, Đức Phật, Mohammed và Khổng Tử làm những nhà tiên tri cho tôn giáo mới của mình. Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, bà đôi khi chiến đấu cho và đôi khi chống lại người Pháp, tùy thuộc vào ai kiểm soát khu vực bộ lạc Tây Ninh của bà. Cao Đài có một đội quân được trang bị tốt gồm 20.000 người, chiến đấu quyết liệt trong mọi nguy hiểm và truy đuổi kẻ thù với lòng ham muốn giết người đặc biệt. Sinh vật cao nhất của họ 'Aa' hứa hẹn với các tín đồ của mình niềm hạnh phúc lớn hơn sau khi chết, càng nhiều người không tin tưởng trước đây họ đã chuyển sang thế giới bên kia. Sau khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc, giáo phái này cố gắng mở rộng quyền lực ở các tỉnh lân cận và liên minh với lãnh đạo chính phủ Nam Việt Nam Diệm. Tuy nhiên, sau khi phe Cao Đài bắt đầu đàn áp đạo Cao Đài, họ gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ( tiếng Anh : National Freedom Front (NLF), Vietnamese Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ) và được thành lập vào cuối năm 1960 với tên gọi một 'lực lượng yêu nước' được kết nạp vào Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Vào cuối năm 1959, số lượng tín đồ Cao Đài có vũ trang ước tính khoảng 4.000 người.

Quân nổi dậy

Ngay từ tháng 7 năm 1959 đã có những cuộc tấn công ở Tây Ninh bởi một số nhóm du kích nhỏ hơn. Những cuộc đột kích đầu tiên này thường được thực hiện bằng vũ khí cực kỳ thô sơ. Nghĩa quân thường chiến đấu bằng nỏ và bom ống tự chế. Một đại đội nổi dậy , tức là từ 120 đến 140 người, ban đầu thường có không quá mười đến mười lăm khẩu súng trường và chỉ có vài trăm viên đạn. [10] Cuối năm 1959, trong tỉnh có khoảng 1.000 du kích được trang bị vũ khí .

Một trong những nhóm này được lãnh đạo bởi Quyết Thắng, một cựu chiến binh Việt Minh, người đã giữ các chức vụ chỉ huy cấp thấp hơn trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất . Sau khi chiến tranh kết thúc ông trở về Tây Ninh và tiếp tục cuộc sống làm nông như xưa. Đơn vị dưới quyền chỉ huy của ông gồm 260 người đã có 170 khẩu súng; Cao Đài cung cấp khoảng 100 lính. Gọi những người lính này là Việt Cộng là sai lầm. Họ không phải là những người cộng sản cũng không phải là thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, vốn chỉ mới được thành lập vào cuối năm 1960. Họ là những chiến sĩ kháng chiến già, những người trẻ chạy trốn khỏi các băng nhóm tuyển quân, một số quân nhân QLVNCH đào ngũ và các thành viên Cao Đài. Quyết Thắng đã ra sức giáo dục và huấn luyện du kích trong hai năm. Nhưng do những cuộc thanh trừng đẫm máu của QLVNCH, việc này thường không thành công. Tuy nhiên, giờ đây anh đã tập hợp một nhóm lớn quân nổi dậy xung quanh mình và hy vọng có thể cùng họ tấn công và chinh phục pháo đài.

Tua Hai có ý nghĩa quan trọng đối với quân du kích vì nhiều lý do. Từ đó, lực lượng QLVNCH có thể kiểm soát được một nửa tỉnh. Ngoài ra, tuy con đường của quân du kích vào các khu vực Campuchia không bị chặn nhưng ít nhất cũng gây khó khăn hơn nhiều. Ngay cả hồi đó, Campuchia vẫn là nơi rút lui phổ biến của những người kháng chiến Việt Nam, những người có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của Hoàng tử Sihanouk . Ông ủng hộ mọi phong trào đấu tranh chống lại chế độ ở Sàigòn mà ông ghét. Nhưng lý do quan trọng nhất của cuộc đột kích là lương thực dự trữ ở Tua Hai. Để đề phòng những xung đột trong tương lai, chính phủ đã thiết lập các kho cung cấp vũ khí và đạn dược lớn ở đó, và quân du kích không cần gì hơn ngoài vũ khí tốt hơn. Quyết Thắng hy vọng thu được ít nhất 300 khẩu súng trường với loại đạn thích hợp để trang bị cho đơn vị của mình.

Trận chiến

Chuẩn bị

Trong pháo đài có rất nhiều binh sĩ có cảm tình với quân nổi dậy và mang những thông tin có giá trị ra bên ngoài. Ngoài ra, vài ngày trước vụ tấn công, một số tù nhân đã bị bắt để lấy thêm thông tin, chẳng hạn như: B. thu thập vũ khí, thiết bị, kế hoạch phòng thủ và những thứ tương tự từ chúng. Ở một số ngôi làng xa xôi, đàn ông có thể tuyển khoảng 500 nông dân làm người khuân vác. Nên tránh trả thù người dân địa phương. Họ được cho là sẽ giúp vận chuyển vũ khí thu được và những người bị thương, đồng thời tạo cho kẻ thù ảo tưởng về một lực lượng tấn công quy mô lớn. Hai ngày trước cuộc tấn công, những người lính đồng cảm đã được thông báo về kế hoạch. Họ cũng được cho là đặt mìn trên các công sự và hầm trú ẩn của binh lính, những nơi này được cho là sẽ phát nổ vào lúc nửa đêm.

Diễn biến

Một ngày trước cuộc đột kích, Quyết Thắng tập hợp quân lính của mình và hành quân thành từng nhóm nhỏ xuyên rừng đến pháo đài. Vào cuối buổi chiều, họ đến được bức tường pháo đài và đào sâu vào rừng. Chỉ huy pháo đài đã được cảnh báo về cuộc tấn công sắp xảy ra và điện đài về Tây Ninh yêu cầu tiếp viện. Tuy nhiên, tỉnh trưởng coi pháo đài là bất khả xâm phạm và từ chối gửi quân. Vì vậy, người chỉ huy quyết định xuất kích để ngăn chặn cuộc tấn công. Lúc 11 giờ đêm, ông lên đường cùng một tiểu đoàn (400-500 người) đi tìm quân nổi dậy. Vào thời điểm đó, những thứ này đã được giấu kỹ gần các công trình đất ở Tua Hai. Quyết Thắng nhìn quân tiến lên và biết kế hoạch của mình đã bị phản bội. Nhưng anh quyết định thực hiện kế hoạch ban đầu của mình mà không thực hiện bất kỳ thay đổi lớn nào. Sở chỉ huy của ông cách công trường đào đất khoảng 200 m về phía bắc. Ông đã bỏ lại khoảng 100 người trên con đường nối tới Tây Ninh để đánh chặn bất kỳ đội quân tiếp viện nào.

Đến 1h45 sáng, quả mìn đặt trước đó cuối cùng cũng phát nổ. Hệ thống truyền tải, doanh trại của đội và kho đạn ngay lập tức bốc cháy. Phi hành đoàn chạy ra ngoài và trực tiếp gặp phải tiếng súng của những kẻ tấn công. Ngay sau khi cuộc giao tranh bắt đầu, một nhóm phiến quân đã đột nhập vào pháo đài và đột nhập vào một kho vũ khí. Họ bỏ lại những khẩu súng trường cũ và lấy vũ khí mới. Sau đó, họ đã chiếm được một số súng máy và boongke. Quân chính phủ bên ngoài pháo đài bị tấn công từ chính vị trí của họ. Nhưng quân nổi dậy cũng chịu một số tổn thất khi xâm lược từ phía nam. Một nhóm du kích đã chiếm được một số xe tải quân đội. Các thùng đạn dược và vũ khí được chất lên rất vội vàng, trong khi giao tranh ác liệt vẫn tiếp diễn xung quanh. Mười phút sau, những chiếc xe tải đầu tiên chở đầy hàng ra khỏi pháo đài, tuy nhiên đoàn xe đã bị lính QLVNCH chặn lại và bắt lại. Những người lái xe và một số người bị thương đã trốn thoát được vào rừng. Một chiếc xe tải đã kịp thời chuyển hướng và lái đến trại phía bắc bức tường.

Các đội tàu sân bay đã tiến vào Tua Hai và đang dọn dẹp các trại còn nguyên vẹn. Ở đó họ tìm thấy nhiều vũ khí hơn dự kiến. Quyết Thắng đưa tin: “Có rất nhiều vũ khí ở kho số 1, trong đó có cả súng mới nguyên hộp chưa mở nên không thể lấy hết được. Một số loại vũ khí lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy, ví dụ như súng không giật cỡ nòng 5,7 . Tôi không biết gì về công dụng của chúng nhưng vẫn quyết định mang theo 5 chiếc. Sau đó, chúng tỏ ra rất hiệu quả khi chống lại xe tăng M 113 và các lô cốt của đối phương.” Sau một thời gian, những người lính chính phủ còn lại đầu hàng quân nổi dậy, lực lượng mà họ đã đánh giá quá cao trong đêm và việc tiếp tục chống cự được coi là vô nghĩa. Hơn 400 lính VNCH bị bắt. Họ chất đầy những hộp đạn dược và vũ khí rồi bị đuổi ra khỏi pháo đài. Sau một và ba phần tư giờ, trận chiến kết thúc và quân nổi dậy rút lui về điểm tập trung. Trong khi đó, Quyết Thắng đã được thông báo về bẫy của quân xuất kích và mất phương tiện nên đã ra lệnh sơ tán pháo đài càng nhanh càng tốt. Trong đêm tối, anh vượt qua ổ phục kích và cùng người của mình cách Tua Hai khoảng 15 km. Một số tù nhân tự nguyện tham gia du kích, số khác bị đuổi về giữa chừng. Những người lính bị đe dọa được thông báo rằng họ sẽ không bỏ cuộc nhẹ nhàng trong cuộc tấn công tiếp theo và sẽ phải đối mặt với hình phạt nghiêm khắc. Họ cũng muốn phân phát tờ rơi có chữ "Lực lượng Phòng vệ Nhân dân". Họ phải giải thích cho kẻ thù lý do tại sao họ lại dùng đến hành động vũ trang.

Kết quả

Số binh sĩ thiệt mạng và bị thương của cả hai bên phần lớn không rõ. Về cơ bản chỉ có ba nguồn mâu thuẫn nhau. Bản thân Kuno Knöbl từng là nhà báo ở Việt Nam; các chiến binh NLF báo cáo với ông rằng chỉ có 11 kẻ tấn công thiệt mạng và hơn 20 người bị thương. "100 lính của chính phủ bù nhìn" được cho là đã chết khi bảo vệ pháo đài và hơn 200 người bị thương. Bản thân ông nói: “Không còn có thể xác định những tổn thất này là đúng ở mức độ nào nữa; có lẽ một mặt chúng đã bị đánh giá thấp và mặt khác đã bị phóng đại”. Wilfred Burchett được biết rằng kẻ thù có khoảng 400 người chết và bị thương. Ronald Spector lại báo cáo rằng có ít hơn 70 binh sĩ QLVNCH bị thương hoặc thiệt mạng. Tuy nhiên, những con số này rất có thể là quá thấp.

Nhìn chung, tổn thất của cả hai bên dường như ở mức thấp và hiệu quả quân sự là không đáng kể. Nhưng dù có bao nhiêu người chết trong trận chiến thì xét về mặt tâm lý thì đó cũng là một thành công lớn đối với phe du kích. Vì ở Sàigòn người ta phản ứng với trận đánh Tua Hai một cách cuồng loạn. Lúc đầu, vụ tấn công được miêu tả là việc làm của quân nổi dậy Cao Đài, sau đó họ đổ lỗi cho các băng đảng Campuchia. Cuối cùng, lãnh đạo Sàigòn thừa nhận cựu chiến binh Việt Minh đã thực hiện vụ tấn công. Một chiến dịch tuyên truyền quy mô lớn đã được bắt đầu. Những chiếc loa phóng thanh lăn bánh khắp tỉnh đưa tin về vụ tấn công và những hành động tàn bạo được cho là của những người kháng chiến. Điều này nhằm mục đích khiến người dân sợ hãi và khiếp sợ trước những người theo đảng phái. Tuy nhiên, hầu hết thời gian, nó chỉ có tác dụng ngược lại. Người dân hân hoan thừa nhận sự thất bại đẫm máu của chính phủ đáng ghét. Ở một số ngôi làng, nơi các áp phích nói về sự tàn bạo của quân nổi dậy, người dân đã hoan nghênh và công khai đứng về phía quân nổi dậy. Thường thì nông dân chỉ được biết đến sự tồn tại của phong trào phản kháng thông qua tuyên truyền của chính phủ. Nhiều người bây giờ chỉ tìm cách liên lạc với quân du kích, những người mà trước đây họ biết rất ít về sự tồn tại của họ.

Cuộc tấn công đã tác động nặng nề đến tinh thần của quân đội QLVNCH đóng tại Tây Ninh. Cùng tháng đó, hơn 200 binh sĩ đào ngũ khỏi Đồn Tua Hai, và một đại đội bộ binh khác ở Tây Ninh đào tẩu sang quân du kích. Tiểu đoàn của Quyết Thắng nhanh chóng nổi tiếng và chỉ hai tháng sau đã có 350 binh sĩ được trang bị tốt, tinh thần vượt xa quân chính phủ. Bản thân Quyết Thắng đã được khen thưởng vì lòng dũng cảm của mình và sớm được thăng chức trung đoàn trưởng các đơn vị chính quy của MTDTGP. Trong vài tháng tiếp theo, một số nhóm du kích khác được thành lập và ngay sau đó đã có 1.500 du kích được trang bị vũ khí ở Tây Ninh. Cho đến khi chiến tranh kết thúc 15 năm sau, chính phủ sẽ không bao giờ có thể thực hiện chính quyền hữu hiệu ở Tây Ninh được nữa.

Chiến lợi phẩm mà nhóm Quyết Thắng thu được lớn hơn dự kiến. Theo NLF, hơn 1.000 súng trường, 5 vũ khí không giật, 40 súng máy bao gồm cả phụ tùng và hơn 100.000 viên đạn đã bị thu giữ ở Tua Hai. Sau khi quân du kích tái trang bị, số súng dư thừa được cất vào những nơi ẩn náu bí mật trong rừng và được những người khuân vác đưa đi các tỉnh khác. Điều này có nghĩa là các nhóm du kích khác có thể được trang bị chúng và những vũ khí cũ được trao vào tay nông dân. Lúc này Sàigòn thấy mình phải đối đầu với các đơn vị du kích lớn hơn không chỉ ở Tây Ninh mà còn ở các tỉnh khác. Các cuộc đột kích như ở Tua Hai được lặp lại trên khắp cả nước. Họ luôn áp dụng vào các căn cứ của chính phủ, đồn trú tiền phương, tiền đồn, kho đạn dược và vũ khí. Các đại diện của chế độ, các sĩ quan cảnh sát, đặc vụ, giáo viên, quan chức, địa chủ, công chức, lãnh đạo huyện, tỉnh đều bị bắt cóc, trục xuất, tống tiền và đôi khi bị giết. Cũng như ở miền Tây đất nước, dân chúng ở vùng cao và đồng bằng sông Cửu Long đã sớm nổi dậy . Các điệp viên Việt Minh cuối cùng đã thu được thành quả sau nhiều năm tuyên truyền. Điều này đã mở ra một chương hoàn toàn mới trong Chiến tranh Việt Nam.

Trong cuốn sách do Học viện Quân sự Cao cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam xuất bản vào năm 1980 cho biết chỉ trong "20 phút chiến đấu", quân du kích đã "diệt và làm bị thương 400 tên , trên 1.000 sĩ quan và binh lính địch đầu hàng", "phá hủy 1 tiểu đoàn pháo 105 ly và 1 tiêu đoàn xe tăng hạng nhẹ , thu trên 5.000 súng , 3 xe đạn dược".[a][4]

Trong cuốn sách ra mắt năm 1995 do Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị soạn thảo cho biết đã "diệt 700 tên , bắt rồi thả tại chỗ 500 tên".[5] Năm năm sau, ban ngành này tiếp tục phát hành tác phẩm "Chiến tranh Cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học" trong đó giảm tổng tổng số người thiệt mạng bên phe quân đội quốc gia xuống còn "600 tên , thu 1.500 súng các loại".[b][10]

Phản ứng

Việt Cộng đã trinh sát kỹ lưỡng nơi này. Họ biết hầu hết Trung đoàn đã đi, họ biết chính xác phòng vũ khí ở đâu, họ biết chính xác tòa nhà nào mà các sĩ quan ngủ và hướng đến đó. Sự việc này thực sự khiến người [miền Nam] Việt Nam bối rối.

Thư của Trưởng nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam Samuel Williams gửi cho cấp dưới.[11][12]

Sự kiện tập kích đã gây sốc cho chính phủ Ngô Đình Diệm và các cố vấn Mỹ, một nghiên cứu đến từ Đại sứ quán Hoa Kỳ, Phái bộ Cố vấn Hỗ trợ Quân sự (MAAG) và Cơ quan Tình báo Trung ương về những tác động của trận chiến đã khuyến nghị quân đội miền Nam cần được huấn luyện về chiến tranh du kích để đối phó lại mối đe dọa ngày càng tăng đến từ lực lượng cộng sản.[13] Các cơ quan này nhận định cuộc tấn công là một "minh họa ấn tượng" về "chiến thuật ngày càng hung hãn của Việt Cộng", qua đó bộc lộ rõ những vấn đề khó khăn mà quân đội Sài Gòn gặp phải trong quá trình "kiểm soát tình hình an ninh nội bộ".[14] Vụ việc đã chứng tỏ "sự táo bạo", "khả năng Việt Cộng xâm nhập vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa" và có dấu hiệu cho thấy quân cách mạng được "một số người dân địa phương bí mật hỗ trợ".[14] Cuộc đột kích và các hành động tương tự khác xảy ra vào đầu năm 1960 khiến Đại sứ quán Mỹ kết luận rằng vấn đề nổi dậy đã leo thang từ một mối đe dọa tiềm ẩn lâu dài nay trở thành "vấn đề số 1" đối với chính phủ nền Đệ Nhất Cộng hòa.[15] William Colby – Trưởng trạm CIA tại Sài Gòn và sau này là Giám đốc Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (DCI), cho biết: "vào đầu năm 1960, miền Nam Việt Nam đã bắt đầu cảm giác — và nhận thấy — kết quả của chiến dịch tổ chức và chiêu mộ cộng sản",[16] việc một trung đoàn của chính phủ miền Nam bị tấn công bất ngờ đã "gây ra nỗi sợ hãi trong giới Sài Gòn."[17] Trong bức thư cá nhân do tướng Samuel Williams – Cố vấn Trưởng Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, gửi cho đồng nghiệp cũ nhận định rằng "sự trắng trợn của cuộc công kích này đã gây chấn động tận gốc rễ người [miền Nam] Việt Nam".[18] Lần đầu tiên quân đội cộng sản đã tập kích thành công vào một cơ sở quân sự cấp trung đoàn của chính quyền Sài Gòn,[19][20][21] và đây cũng chính là trận đánh lớn đầu tiên thu được nhiều vũ khí nhất của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam kể từ thời điểm ký kết hiệp định đình chiến.[22][23][24][25] Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng mở đầu cho cao trào Đồng khởiNam Bộ.[26][27][28]

Cuộc tập kích là một màn thất bại đáng kinh ngạc của quân đội quốc gia Sài Gòn sau năm năm nhận viện trợ và đào tạo của Hoa Kỳ.

Đây là trận chiến quy mô lớn đầu tiên của Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai.[29][30][31]

Cuộc đột kích đã làm gợi nhớ đến các xung đột quân sự trong quá khứ của Việt Nam như Hoàng đế Quang Trung đánh bại Trung Hoa Đại Thanh quốc vào Tết Kỷ Dậu năm 1789 và sau này là sự kiện Tết Mậu Thân vào năm 1968.[32][30][33][34]

Cuộc tấn công vào Trảng Sụp cùng với các hành động chống lại chính quyền Sài Gòn của quân du kích bắt đầu ở miền Nam không phải là sự chỉ đạo đến từ Hà Nội, mà thực tế lại trái ngược với lệnh của Bắc Việt.[35]

Cả Diệm và các cố vấn người Mỹ của ông đều bị sốc trước quy mô tấn công của quân nổi dậy vào thị trấn Trảng Sụp.[36]

Tướng Williams mô tả sự cố này là “một đòn giáng mạnh vào uy tín của Quân đội Việt Nam Cộng hòa và [là] dấu hiệu cho thấy khả năng của VC trong việc dàn dựng các cuộc tấn công được lên kế hoạch kỹ lưỡng và có quy mô lớn”.[37] (đọc thêm từ trang 152 trở đi, có nhiều thông tin quan trọng)

Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ tuyên bố đây là khởi đầu cho một giai đoạn chiến tranh mới của Việt Cộng. Cuộc tấn công "có thêm tầm quan trọng mang tính biểu tượng ... khi diễn ra vào đêm giao thừa Tết Nguyên đán".[38]

Linh tinh

Chính quyền Diệm theo chính sách ba-Đ: Đảng (Cần Lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung).[39]

Chất xúc tác trực tiếp cho Tuyên ngôn Caravelle là cuộc tấn công của cộng sản vào Trảng Sụp, Tỉnh Tây Ninh.[40]

Thất bại này được nhiều sĩ quan quy cho là do sự thăng chức vội vã của viên chỉ huy thiếu kinh nghiệm Trần Thanh Chiêu, người bị Giám đốc Cơ quan An ninh Quân đội Việt Nam Cộng hòa Đỗ Mậu coi là "một cấp dưới Công giáo Cần Lao đáng tin cậy".[41]

A Study of Strategic Lessons Learned in Vietnam, Volume VI, Conduct of the War, Book 1, Operational Analyses.

Vào ngày 26 tháng 1, 200 người đàn ông đã tấn công một trung đoàn ARVN tại Trảng Sup. Họ phá hủy một số tòa nhà và lấy đi một kho súng trường, súng lục và súng máy. Cuộc tấn công đã khiến các sĩ quan cấp cao của ARVN rất bối rối. Ngay sau đó, chỉ huy MAAG, Tướng Williams, đã trao đổi với Diệm về nhu cầu cấp thiết phải cải cách ARVN để biến nó thành một lực lượng chiến đấu được tổ chức tốt hơn. Tổng thống Nam Việt Nam hứa sẽ thực hiện các cải cách trong quân đội và cũng sẽ kiểm soát tình trạng tham nhũng trong chính phủ. Nhưng hầu như không có hành động nào được thực hiện. Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Elbridge Durbrow, đã gửi điện tín cho Washington rằng Diệm từ chối nói cụ thể những gì ông sẽ làm để cải thiện hiệu suất của quân đội và chính phủ của mình. Các quan chức Hoa Kỳ càng gây áp lực, Tổng thống Diệm dường như càng rút lui vào cung điện của mình, không nói chuyện với ai ngoài anh trai Nhu, người đứng đầu cảnh sát mật của Nam Việt Nam.

Cuộc nổi loạn du kích bùng nổ ở Nam Việt Nam sau năm 1955 bắt nguồn từ nhiều yếu tố, nhưng thời điểm bùng phát cũng như sức mạnh và độ bền bỉ của nó chỉ có thể được giải thích bằng một yếu tố duy nhất: quyết định của Hà Nội?[42]

Lực lượng kháng chiến vẫn chưa có tên, và họ được chỉ huy bởi Nguyễn Hữu Xuyên, một cựu chiến binh Việt Minh không có cấp bậc chính thức. Địa điểm chiến đấu mà ông chọn cách thành phố Tây Ninh của Đồng bằng bảy km về phía bắc, trên đường đến biên giới Campuchia. Vì đây là cuộc giao tranh đầu tiên của quân nổi loạn, nên Xuyên gọi địa điểm này bằng tên tiếng Pháp cũ của nó, "Căn cứ Two Tour". Những người lính của Xuyên tấn công lúc 12:30 sáng trong khi hầu hết quân đội Sài Gòn đang ngủ. Ba giờ sau, họ rút lui, mang theo vũ khí và đạn dược của đồn. Đối với những người nổi loạn, những giờ phút đó đã chuyển cuộc đấu tranh chống lại Diệm từ chính trị sang quân sự. Các đại đội của Xuyên —60, 70 và 80—chỉ có chưa đến 300 người, chống lại gần 1.700 quân của Diệm. Nhưng tỷ lệ thương vong thì ngược lại: mười lăm người cách mạng tử trận và 20 người bị thương, so với hàng chục người lính Sài Gòn tử trận và tới 500 người bị thương, trong đó có 200 người bị thương nghiêm trọng. Xuyên thả tù binh khi đơn vị của mình rút lui; ông không có khả năng giam giữ tù binh. Yếu tố bất ngờ rất quan trọng nhưng không giải thích hoàn toàn chiến thắng của Xuyên. Quan trọng hơn, ông đã được 200 người của Diệm, những người cũng là điệp viên hai mang của Xuyên, thông báo về mọi chi tiết về các biện pháp an ninh của đồn.[43]

Diệm, với sự hỗ trợ của những người năng nổ tại Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan, đã thực hiện một chương trình cô lập các ngôi làng khỏi lực lượng du kích bằng cách tái định cư người dân ở những khu vực mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa có thể bảo vệ họ. Một loạt các ngôi làng kiên cố, được gọi là Agrovilles, đã được xây dựng ở những khu vực chiến lược, và những người nông dân đã được di dời. Chương trình agroville đã thất bại thảm hại. Những người nông dân đã bị bắt đi lao động cưỡng bức để xây dựng các Agrovilles. Người dân vô cùng phẫn nộ khi bị cưỡng bức rời khỏi đất đai và nơi chôn cất của tổ tiên họ - trung tâm của nền văn hóa Phật giáo. Họ không được đền bù thỏa đáng cho những mất mát của mình và bị buộc phải đi bộ đường dài để chăm sóc đồng ruộng thay vì sống trên đất của họ. Ban đầu, các quan chức của Diệm đã lên kế hoạch xây dựng 80 agrovilles. Nhưng sự phản kháng của nông dân và các cuộc tấn công của quân nổi dậy đã dẫn đến việc từ bỏ chương trình vào cuối năm 1960, sau khi chỉ xây dựng được 22 Agrovilles. Sau chiến tranh, người ta phát hiện ra rằng kiến ​​trúc sư của kế hoạch Agroville, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, thực chất là một điệp viên Cộng sản. Ông đã bán kế hoạch cho Diệm, sau đó thiết kế nó theo cách đảm bảo rằng những người nông dân bị xa lánh khỏi chính quyền Diệm.[44]

Cuộc tấn công vào Trung đoàn Bộ binh 32 của ARVN trong Tết 1960 (tháng 1) là cuộc tấn công nổi tiếng nhất trong số những cuộc tấn công này và trở thành một sự bối rối lớn đối với chính phủ Diệm. Cuộc tấn công Tết đã có thể gây ra nhiều thiệt hại cho hai trong số ba tiểu đoàn, mặc dù quân VC tham gia đã bị truy đuổi và bị phá hủy một phần trong cuộc phản công. Tuy nhiên, VC đã có thể thu giữ hơn 600 vũ khí khi họ rút lui.[45]

Câu trả lời của Hoa Kỳ là cam kết hỗ trợ Nam Việt Nam với mục tiêu rõ ràng là "phát triển một nền kinh tế và chính phủ khả thi" và xây dựng và huấn luyện "lực lượng vũ trang có khả năng đảm bảo an ninh nội bộ và cung cấp khả năng kháng cự ban đầu hạn chế đối với sự xâm lược từ miền Bắc". Những lý tưởng này được củng cố bởi văn bản NSC 5809 của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, trong đó nêu rằng Hoa Kỳ sẽ tìm cách ngăn chặn các quốc gia tự do ở Đông Nam Á chuyển sang hoặc trở nên phụ thuộc về kinh tế vào Khối Cộng sản cho dù đó là thông qua sự xâm lược công khai, lật đổ hay một cuộc tấn công chính trị và kinh tế.[46]

Quân đoàn viễn chinh Pháp đã rời khỏi đất nước, và một đội quân cộng hòa đã được thành lập, nhờ sự viện trợ của Hoa Kỳ, đã trang bị cho họ những vật chất hiện đại. Tuy nhiên, ngay cả trong một nhóm tinh hoa đáng tự hào của thanh niên như Quân đội Việt Nam - nơi mà ý thức danh dự cần được vun đắp, nơi mà máu và vũ khí cần được cống hiến cho việc bảo vệ đất nước, nơi không có chỗ cho tính bè đảng và tư tưởng phe phái - tinh thần của "phong trào cách mạng quốc gia" hoặc "nhân vị" chia rẽ những cá nhân của cùng một đơn vị, gieo rắc sự ngờ vực giữa những người đồng cấp, và sử dụng lòng trung thành đối với đảng phái trong sự phục tùng mù quáng đối với các nhà lãnh đạo đảng làm tiêu chuẩn để thăng chức. Điều này tạo ra những tình huống cực kỳ nguy hiểm, chẳng hạn như sự cố gần đây ở Tây Ninh.[47]

Tướng Williams đã gọi Natsios là "tay sai của CIA" và sau đó nói rằng ông "phù hợp hơn với vai trò nhân viên bán xì gà tại một khách sạn hạng trung".[48]

Williams coi đại sứ "phù hợp với vai trò là nhân viên bán hàng lâu năm trong một cửa hàng giày nữ tốt hơn là đại diện cho Hoa Kỳ tại một quốc gia châu Á".[49]

Đọc chương 1: Counterinsurgency in South Vietnam: Averting a Quagmire.[50]

Tưởng niệm

Ghi chú

  1. ^ Phiên bản tiếng Anh của cuốn sách đã được Cục thông tin phát sóng ngoại quốc (FBIS) – một cơ quan thu thập dữ liệu tình báo nguồn mở của CIA, chuyển ngữ vào năm 1982.[3]
  2. ^ Công trình biên soạn quyển "Chiến tranh Cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học" của 16 tác giả trong Bộ Quốc phòng đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 2007 với lời nhận xét: "Đặc biệt xuất sắc, có giá trị cao về khoa học và công nghệ, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, khoa học, công nghệ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc".[6][7][8][9]

Chú thích

  1. ^ Smyser 1980, tr. 35
  2. ^ Duiker 1981, tr. 358
  3. ^ Học viện Quân sự Cao cấp 1982, tr. 39
  4. ^ Học viện Quân sự Cao cấp 1980, tr. 64
  5. ^ Bộ chính trị, Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh 1995, tr. 321
  6. ^ Dương Đức Quảng, Thông tấn xã Việt Nam & Văn phòng Chính phủ Việt Nam 2008, tr. 487
  7. ^ Phan Văn Giang 2023
  8. ^ Nguyễn Văn Sáu 2023
  9. ^ Lam Hạnh & Quỳnh Nga 2023
  10. ^ Bộ chính trị, Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh 2000, tr. 529
  11. ^ Toczek 2001, tr. 12
  12. ^ Glennon 1986, tr. 344
  13. ^ Spector 1983, tr. 338–39
  14. ^ a b Glennon 1986, tr. 303
  15. ^ Glennon 1986, tr. 300
  16. ^ Colby & McCargar 1989, tr. 69
  17. ^ Colby & McCargar 1989, tr. 72–73
  18. ^ Glennon 1986, tr. 344
  19. ^ Tran 2022, tr. 134
  20. ^ Hồ Sơn Đài, Trần Phấn Chấn & Trần Thị Nhung 1994, tr. 131
  21. ^ Lê Chiêm 2020
  22. ^ Nguyễn Ngọc Mai và đồng nghiệp 2012, tr. 110
  23. ^ Thạch Phương & Nguyễn Trọng Minh 2005, tr. 902
  24. ^ Viện Lịch sử Quân sự 2005, tr. 117
  25. ^ Trần Quỳnh Cư và đồng nghiệp 2004, tr. 193
  26. ^ Nguyễn Duy Hùng và đồng nghiệp 2010, tr. 325, 330
  27. ^ Ngô Xuân Lịch 2020
  28. ^ Vũ Ngọc Lân 2000, tr. 41
  29. ^ Oberdorfer 2001, tr. 71
  30. ^ a b Lavell 2000, tr. 265
  31. ^ Burchett 1964, tr. 3
  32. ^ Trần Văn Dĩnh 1968, tr. 61
  33. ^ Duncanson 1968, tr. 266
  34. ^ Kaiser 2018, tr. 59–60
  35. ^ Hunt & Werner 1993, tr. 101–04
  36. ^ Neu 2005, tr. 40
  37. ^ Barnes 2015, tr. 152
  38. ^ Davies & McKay 2013, tr. 55
  39. ^ Karlin 2018, tr. 90
  40. ^ Tran 2023, tr. 4
  41. ^ Fear 2016, tr. 25
  42. ^ Joes 1989, tr. 46
  43. ^ Langguth 2000, tr. 101
  44. ^ Moss 2020, tr. 81
  45. ^ Barnes 2015, tr. 152
  46. ^ Davies & McKay 2013, tr. 55
  47. ^ Fall 1963, tr. 435
  48. ^ Anderson 1991, tr. 186
  49. ^ Badger 2019, tr. 172
  50. ^ Jones 2003, tr. 13–18

Thư mục

Ấn phẩm[a]

Sơ cấp

Thứ cấp

Tam cấp

Trực tuyến





Liên kết ngoài


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng