Deinogalerix

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Keo010122Bot (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 13:10, ngày 22 tháng 8 năm 2021 (top: clean up, general fixes using AWB). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Deinogalerix (tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "khủng khiếp/khủng bố" + hậu tố Galerix) là một chi thú tiền sử đã tuyệt chủng, chúng thuộc phân họ chuột chù núi cao (Galericinae) của họ chuột chù Erinaceidae, các loài trong chi này đã tuyệt chủng và chúng từng sống ở Ý vào cuối thế Miocene.

Deinogalerix
Thời điểm hóa thạch: Hậu Miocene
Tranh vẽ mô tả một con Deinogalerix
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Eulipotyphla
Họ (familia)Erinaceidae
Phân họ (subfamilia)Galericinae
Chi (genus)Deinogalerix
Freudenthal, 1972
Loài
  • D. brevirostris
  • D. freudenthali
  • D. intermedius
  • D. koenigswaldi[1]
  • D. minor
  • D. masinii[2][3]

Phân loại

Chi này rõ ràng là loài đặc hữu của hòn đảo Gargano, nay là một bán đảo. Mẫu vật đầu tiên của Deinogalerix được mô tả lần đầu tiên vào năm 1972. Chi là ở phân họ nhím lông (dím) của các loài hoặc chuột chù núi cao, chứ không phải là một loài chuột nào cả, mà là những con chú có họ hàng của nhím lông dài. Trong tiểu khu Miocen muộn, hiện nay Ý chủ yếu là một nhóm các hòn đảo nhỏ và chỉ vào một ngày sau đó hầu hết các đảo này đều tham gia với đại lục. Người ta biết rằng loài động vật trên những hòn đảo này đôi khi tiến hóa khá khác so với những nơi khác, vì vậy có thể Deinogalerix đã sống độc lập ở Gargano.

Đặc điểm

Chúng có bề ngoài dạng chuột (superficially rat-like) và có quan hệ lỏng lẻo với loài nhím gai lông thưa. Deinogalerix có khuôn mặt dài ngoằng, mỏng, hình nón nhỏ, đôi tai nhọn, đuôi dài và lông dài. Xương hộp sọ của loài Deinogalerix koenigswaldi dài khoảng 20 cm (7,9 inch) và toàn bộ cơ thể đo được chiều dài khoảng 60 cm (24 inch). Ngày nay, nó đã có cùng một hốc sinh thái giống như chómèo, ngoại trừ nó có nhiều kẻ săn mồi hơn chẳng hạn như con cú sên to (Tyto gigantea). Người ta tin rằng loài Deinogalerix là loài ăn côn trùng, chúng chủ yếu ăn những động vật không xương sống như bọ cánh cứng, chuồn chuồndế, và thậm chí cả ốc sên. Nhưng những loài lớn hơn cũng có thể đã săn bắt các loài động vật có vú cỡ nhỏ, bò sát nhỏ và chim nhỏ.

Tham khảo

  1. ^ Freudenthal, M. (1972). “Deinogalerix koenigswaldi nov. gen., nov. spec., a giant insectivore from the Neogene of Italy”. Scripta Geologica. 14: 1–19. [1] (includes full text PDF)
  2. ^ Villiera B.; Van Den Hoek Ostendeb L.W.; De Vosb J.; Paviaa M. (2013). “New discoveries on the giant hedgehog Deinogalerix from the Miocene of Gargano (Apulia, Italy)”. Geobios. 46 (1–2): 63–75. doi:10.1016/j.geobios.2012.10.001.
  3. ^ “Deinogalerix masinii: New Giant Fossil Hedgehog from Italy”. Sci-News.com. ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.