Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Brandenburg-Phổ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
n (Bot) AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:09.4526579 |
||
(Không hiển thị 40 phiên bản của 8 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 4:
|common_name = Brandenburg-Phổ
|status=Liên hiệp chính trị
|status_text= [[Liên minh cá nhân]] giữa [[Phiên
|era=Đế chế La Mã Thần thánh
|year_start = 1618
Dòng 11:
|date_end = January 18,
|event_start = [[Liên minh cá nhân]]
|event_end
|event1
|date_event1 = September 19, 1657
|p1 = Phiên
|p2 = Công quốc Cleves
|p3 = Bá quốc Mark
Dòng 26:
|p11 = Draheim
|s1 = Vương quốc Phổ
|image_flag
|image_flag2 = [[
|flag_type = <!-- Flag captions; Note: using flag/flag_type_article with this code will have unexpected results -->
<div style="display:table; width:100%; padding-left:5px;">
Dòng 33:
<div style="display:table-cell; width:50%;">[[Quốc huy Phổ|Quốc huy của<br />Công quốc Phổ]]</div>
</div>
|image_map = [[Tập tin:Locator Brandenburg-Prussia within the Holy Roman Empire (1618).svg|300px]]
|image_map_caption = Brandenburg-Phổ trong và ngoài [[Đế chế La Mã Thần thánh]] (1618)
|capital = [[Berlin]] và [[Königsberg]]
|government_type = [[Phong kiến (châu Âu)|Quân chủ phong kiến]] trong Liên minh cá nhân
|title_leader= [[Phiên
|leader1 = [[John Sigismund, Tuyển
|year_leader1=1618–1619
|leader2 = [[Georg Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|George William]]
|year_leader2=1619–1640
|leader3 = [[Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|Frederick William]]
|year_leader3=1640–1688
|leader4 = [[Friedrich I của Phổ|Frederick III]] (Frederick I)
|year_leader4=1688–1701
}}
'''Brandenburg-Phổ''' ([[tiếng Đức]]: ''Brandenburg-Preußen''; [[tiếng Hạ Đức]]: ''Brannenborg-Preußen''; [[tiếng Anh]]: ''Brandenburg-Prussia'') là [[Thuật chép sử|tên gọi lịch sử]] của
[[Chiến tranh Ba mươi năm]] (1618–1648) đặc biệt tàn khốc. Các nhà cai trị Hohenzollern đã đổi bên 3 lần, và kết quả là quân đội [[Tin lành]] và [[Công giáo]] quét qua lại vùng đất này, giết, đốt, bắt giữ người và lấy lương thực. Hơn một nửa dân số đã bị giết hoặc bị bắt đi. [[Berlin]] và các thành phố lớn khác đã bị phá hủy, và hàng thập kỷ sau mới phục hồi lại được. Chiến tranh Ba mươi năm đã kết thúc sau khi [[Hòa ước Westphalia]] được ký kết vào năm 1648, Brandenburg giành được [[Giáo phận vương quyền Minden]]<ref>[http://susi.e-technik.uni-ulm.de:8080/Meyers2/seite/werk/meyers/band/11/seite/0644/meyers_b11_s0644.html At Meyers Konversationslexikon, 1888] {{in lang|de}}</ref> và [[Thân vương quốc Halberstadt]], cũng như thừa kế lãnh thổ [[
Nửa sau thế kỷ XVII, Phổ trở thành một trong những [[Đại cường quốc]] trên chính trường [[châu Âu]]. Tiềm lực quân sự Brandenburg-Phổ
Brandenburg-Phổ cũng thành lập [[Hải quân Brandenburg|lực lượng hải quân]]<ref name="ger">{{
Năm 1701, [[Friedrich I của Phổ|Frederick III, Tuyển
==Thành lập dưới thời John Sigismund (1618)==
[[Tập tin:ErwerbRheinland.jpg|thumb|200px|Sự hình thành của Brandenburg-Phổ thông qua cuộc hôn nhân của [[John Sigismund, Phiên hầu tước của Brandenburg]] với [[Nữ công tước Anna của Phổ]].]]
Trước khi Brandenburg-Phổ ra đời, lãnh thổ cai trị chính của [[Nhà Hohenzollern]] chính là [[Phiên bá quốc Brandenburg]], họ được nâng lên địa vị [[Tuyển hầu]] với quyền bầu chọn ra [[Hoàng đế La Mã Thần thánh]] vào năm 1415.<ref name=Hammer33>Hammer (2001), p. 33</ref> Năm 1525, theo [[Hiệp ước Kraków]], [[Công quốc Phổ]] được thành lập thông qua việc thế tục hóa một phần [[Deutschordensstaat|Nhà nước Kị sĩ Teutonic]].<ref name=Hammer33/> Nó là một chư hầu của [[Vương quyền Vương quốc Ba Lan|Vương quốc Ba Lan]] và được cai trị bởi [[Albert, Công tước của Phổ|Công tước Albert]], một thành viên thuộc nhánh dưới của [[Nhà Hohenzollern]].<ref>Jähnig (2006), pp. 54ff</ref> Năm 1563, nhánh Hohenzollern của Brandenburg được Ba Lan trao quyền kế vị Công quốc Phổ.<ref name=Jaehnig65>Jähnig (2006), p. 65</ref>
[[Albert Frederick, Công tước của Phổ|Albert Frederick]] trở thành [[công tước]] của Phổ sau cái chết của vị [[Albrecht, Công tước của Phổ|công tước đầu tiên]] vào năm 1568.<ref name=Jaehnig65/> Mẹ của ông qua đời cùng năm, và sau đó ông có dấu hiệu rối loạn tâm thần.<ref name=Jaehnig66>Jähnig (2006), p. 66</ref> Vì bệnh của công tước,<ref name=Jaehnig65/> Phổ được cai quản bởi cháu trai của Albert <ref name=Jaehnig65/> là [[George Frederick, Phiên hầu tước của Brandenburg-Ansbach|George Frederick của Hohenzollern-Ansbach-Jägersdorf]] (1577–1603).<ref name=Hammer33/> Năm 1573, Albert Frederick kết hôn với [[Marie Eleonore của Cleves|Marie Eleonore của Jülich-Cleves-Berg]], và hậu duệ của họ chỉ có con gái.<ref name=Jaehnig66/>
Năm 1594, con gái của Albert Frederick là [[Nữ công tước Anna của Phổ]], lúc đó 14 tuổi đã kết hôn với con trai của [[Joachim Frederick, Tuyển hầu xứ Brandenburg]] là [[John Sigismund, Tuyển hầu xứ Brandenburg|John Sigismund]].<ref name=Hammer24>Hammer (2001), p. 24</ref> Cuộc hôn nhân đảm bảo quyền kế vị [[Công quốc Phổ]] cũng như ở [[Liên hiệp Công quốc Jülich-Cleves-Berg|Cleves]] cho [[Nhà Hohenzollern]] nhánh Brandenburg.<ref name=Hammer24/> Sau cái chết của George Frederick vào năm 1603, quyền nhiếp chính của Công quốc Phổ được trao cho Joachim Frederick.<ref name=Hammer33/> Cũng trong năm 1603, [[Hiệp ước Gera]] được ký kết bởi các thành viên của Nhà Hohenzollern, phán quyết rằng lãnh thổ của gia tộc sẽ không được chia cắt tương lai.<ref name=Hammer33/>
Các [[Phiên bá quốc Brandenburg|Tuyển hầu xứ Brandenburg]] được kế thừa [[Công quốc Phổ]] sau cái chết của Albert Frederick vào năm 1618,<ref name=Gotthard86>Gotthard (2006), p. 86</ref> nhưng công quốc vẫn tiếp tục được giữ như một thái ấp của Ba Lan cho đến năm 1656/1657.<ref name=Hammer136>Hammer (2001), p. 136</ref> Kể từ khi John Sigismund bị đột quỵ vào năm 1616 và hậu quả là bị tàn tật nghiêm trọng về thể chất cũng như tinh thần, vợ của ông là Anna đã trị vì Công quốc Phổ dưới danh nghĩa của ông cho đến khi John Sigismund qua đời vì đột quỵ lần thứ hai vào năm 1619, ở tuổi 47.<ref name=Gotthard86/>
==George William, 1619–1640==
{{Chính|Georg Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg}}
=="Tuyển đế hầu vĩ đại", Frederick William, 1640–1688==▼
[[Tập tin:GeorgWilhelm.1635.Ausschnitt.JPG|thumb|200px|[[Georg Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg]]]]
Trong giai đoạn từ năm 1619 đến năm 1640, [[Georg Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|George William]] nắm giữ ngại vị [[Tuyển hầu]] của [[Phiên bá quốc Brandenburg|Brandenburg]] và [[Công tước]] của Phổ. Ông đã cố gắng phá bỏ thế thống trị của [[Tuyển hầu quốc Sachsen]] trong [[Vùng đế chế Thượng Sachsen]] nhưng không thành.<ref name=Nicklas214ff>Nicklas (2002), pp. 214ff</ref> Sự đối đầu giữa Brandenburg - Sachsen khiến việc duy trì Vùng đế chế quyền lực không còn hiệu quả, và sau đó nó bị [[Albrecht von Wallenstein]] đánh bại trong [[Chiến tranh Ba mươi năm]].<ref name=Nicklas214ff/> Lúc đầu George William đã tuyên bố trung lập, nhưng chính sự hiện diện của quân đội Wallenstein trên lãnh thổ Brandenburg đã khiến cho ông phải gia nhập nhóm Công giáo của Đế chế trong [[Hiệp ước Königsberg (1627)]].<ref name=Gotthard88>Gotthard (2006), p. 88</ref>
Khi [[Đế quốc Thụy Điển]] [[Hiệp ước Stettin (1630)|tham chiến]] và [[Trận Frankfurt an der Oder|tiến vào Brandenburg]], George William một lần nữa tuyên bố trung lập, nhưng [[Gustav II Adolf|Vua Gustavus Adolphus của Thụy Điển]] đã buộc George William phải trở thành đồng minh của Thụy Điển bằng cách chiếm đóng lãnh thổ đáng kể ở Brandenburg-Phổ và tập trung quân đội trước các bức tường thành phố [[Berlin]].<ref name=Gotthard90>Gotthard (2006), p. 90</ref> George William không ký kết liên minh, nhưng cấp cho Thụy Điển quyền vận chuyển, hai pháo đài phong thủ và khoản trợ cấp quân sự.<ref name=Gotthard90/> Do đó, các đội quân Công giáo La Mã liên tục tàn phá Brandenburg và các vùng đất khác của [[Nhà Hohenzollern]].
{{Chính|Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg}}
[[Tập tin:Map of Brandenburg-Preussen.jpg|thumb|200px|Brandenburg-Phổ (đỏ 1640, đỏ và xanh lục 1688).]]
Trong [[Chiến tranh Ba mươi năm]], George William được kế vị bởi [[Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|Frederick William]], sinh năm 1620, người được gọi là ''"Tuyển hầu vĩ đại"'' (Der Große Kurfürst).<ref name=Duchhardt97>Duchhardt (2006), p. 97</ref> Ông đã ở lại [[Cộng hòa Hà Lan]] khá lâu và ảnh hưởng mạnh bởi các tư tưởng khoan dung tôn giáo và được bố vợ tương lai là [[Thân vương xứ Orange]] [[Frederick Henry, Thân vương xứ Orange|Frederick Henry]] dạy về nghệ thuật, thương mại và khoa học quân sự Hà Lan.<ref name="henrykamen">Henry Kamen, ''Who's who in Europe, 1450-1750'', trang 121</ref>
===Chiến tranh Ba mươi năm===
{{Chính|Hiệp ước Stettin (1630)|Hiệp ước Stettin (1653)}}
[[Tập tin:Kurfuerst friedrich wilhelm.jpg|thumb|left|200px|[[Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|Frederick William, Tuyển đế hầu Vĩ đại của Brandenburg-Phổ]]]]
[[Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu xứ Brandenburg|Frederick William]] đã tiếp quản Brandenburg-Phổ trong thời kỳ khủng hoảng chính trị, kinh tế và nhân khẩu học do chiến tranh gây ra.<ref name=Duchhardt97/> Sau khi kế vị, [[tuyển đế hầu]] mới cho quân đội Brandenburgian nghỉ ngơi, nhưng có một đội quân được tăng cường trở lại vào năm 1643/44.<ref name=Duchhardt98>Duchhardt (2006), p. 98</ref> Việc Frederick William có ký kết hiệp định đình chiến và trung lập với Thụy Điển hay không vẫn còn bị tranh cải. Tuy nhiên, không có gì phải bàn cãi rằng ông đã thiết lập sự lớn mạnh của Brandenburg-Phổ.<ref name=Duchhardt102>Duchhardt (2006), p. 102</ref>
Vào thời điểm đó, các lực lượng của [[Đế quốc Thụy Điển|Đế chế Thụy Điển]] đang thống trị miền Bắc Đức, và cùng với đồng minh của mình là [[Vương quốc Pháp]] của [[Nhà Bourbon]], Thụy Điển đã trở một thế lực giúp bảo đảm cho [[Hòa ước Westphalia]] vào năm 1648. Mục tiêu của Thụy Điển là kiểm soát [[Biển Baltic]] bằng cách thiết lập kiểm soát dọc trên [[đường bờ biển]] ("dominium maris baltici")<ref>Olesen (2003), p. 395</ref> ngăn cản tham vọng của Frederick William nhằm giành quyền kiểm soát cửa [[Oder|sông Oder]] với [[Szczecin|Stettin]] (Szczecin) ở [[Pomerania]].<ref name=Hammer19>Hammer (2001), p. 19</ref>
Các lãnh thổ của [[Phiên bá quốc Brandenburg]] từ lâu đã tìm cách mở rộng về phía Bắc, để ra được [[Biển Baltic]]. Hiệp ước Grimnitz (1529) đảm bảo người [[Nhà Hohenzollern]] sẽ thừa kế [[Công quốc Pomerania]] sau sự tuyệt tự dòng nam của [[Nhà Pomerania]], và sẽ có hiệu lực sau cái chết của [[Bogislaw XIV, Công tước xứ Pomerania|Công tước Pomerania Bogislaw XIV]] vào năm 1637.<ref name=Duchhardt98/> Tuy nhiên, theo [[Hiệp ước Stettin (1630)]], Bogislaw XIV cũng đã chuyển giao quyền kiểm soát công quốc cho Thụy Điển,<ref>Sturdy (2002), p.59</ref> người đã từ chối nhượng bộ yêu sách của các nhà cai trị Brandenburg. [[Hòa ước Westphalia]] đã giải quyết những tranh chấp lãnh thổ công quốc Pomerania giữa Brandenburg và Thụy Điển, theo đó xác định biên giới trong Hiệp ước Stettin (1653).<ref name=Hammer25>Hammer (2001), p. 25</ref> Thụy Điển giữ lại phần phía Tây bao gồm hạ [[Oder]] ([[Pomerania thuộc Thụy Điển]]), trong khi Brandenburg giành được phần phía Đông ([[Hậu Pomerania|Farther Pomerania]]).<ref name=Hammer25/> Frederick William không hài lòng với kết quả này, và việc mua lại toàn bộ [[Công quốc Pomerania]] trở thành một trong những mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của ông.<ref>Duchhardt (2006), pp. 98, 104</ref>
Trong [[Hòa ước Westphalia]], Frederick William đã được trao quyền cai trị các lãnh thổ của giáo phận Halberstadt, [[Giáo phận vương quyền Minden|Minden]] và [[Tổng giáo phận vương quyền Magdeburg]] đã được thế tục hóa. Đây được xem là khoản bồi thường cho việc Brandenburg đã nhượng vùng Tây Pomerania cho Thụy Điển.<ref name=Hammer19/> Với [[Giáo phận Halberstadt của Công giáo La mã|Giáo phận Halberstadt]], Brandenburg-Phổ cũng giành được một số lãnh thổ nhỏ hơn: [[Lãnh địa Derenburg]], [[Bá quốc Regenstein]], [[Lãnh địa Klettenberg]] và [[Lãnh địa Lohra]].<ref name=Hammer25/> Brandenburg-Phổ nhận được nhiều lãnh thổ chủ yếu là do những nỗ lực của [[Vương quốc Pháp]] nhằm đối trọng với quyền lực của [[Quân chủ Habsburg]] bằng cách củng cố [[Nhà Hohenzollern]], và trong khi Frederick William đánh giá các lãnh thổ này thấp hơn so với Tây Pomerania, chúng đã trở thành bệ đỡ cho việc tạo ra một vương quốc khép kín, thống trị ở Đức trong lâu dài.<ref name=Hammer19/>
===Sự tàn phá===
===Thành lập quân đội thường trực===
===Chiến tranh phương Bắc lần thứ 2===
===Chiến tranh Hà Lan và Scandinavi===
==Frederick III (I), 1688–1713==
==Cai trị==
===Bản đồ lãnh thổ===
===Danh sách lãnh thổ===
{| class="wikitable sortable" style="width:100%;"
|-
!Tên
!Năm mua lại hoặc kế thừa
!Chú thích
|-
|[[Phiên bá quốc Brandenburg]]
|1415
|Lãnh thổ quan trọng nhất và là một [[Tuyển hầu]] của [[Đế chế La Mã Thần thánh]]
|-
|[[Công quốc Cleves]]
|1614
|[[Hiệp ước Xanten]]
|-
|[[Bá quốc Mark]]
|1614
|[[Hiệp ước Xanten]]
|-
|[[Bá quốc Ravensberg]]
|1614
|[[Hiệp ước Xanten]]
|-
|[[Công quốc Phổ]]
|1618
|Chư hầu của [[Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva|Ba Lan]], chư hầu của [[Đế quốc Thụy Điển|Thụy Điển]] vào năm 1656 ([[Hiệp ước Königsberg (1656)|Hiệp ước Königsberg]]), có chủ quyền từ năm 1656 ([[Hiệp ước Labiau]] với Thụy Điển) và 1657 ([[Hiệp ước Wehlau-Bromberg]] với Ba Lan-Litva), được xác nhận vào năm 1660 bởi các bên ký kết [[Hòa ước Oliva]]
|-
|[[Giáo phận Minden]]
|1648
|[[Hòa ước Westphalia]]
|-
|[[Thân vương quốc Halberstadt]]
|1648
|[[Hòa ước Westphalia]]
|-
|[[Tỉnh Pomerania (1653–1815)|Farther Pomerania]] với [[Giáo phận Cammin|Cammin]]
|1653
|[[Hiệp ước Grimnitz]] (quyền lợi); [[Hòa ước Westphalia]] (quyền lợi); [[Hòa ước Stettin (1653)|Hòa ước Stettin]] (thành lập); mở rộng bởi [[Hiệp ước Saint-Germain-en-Laye (1679)]]
|-
|[[Giáo phận vương quyền Warmia|Ermland (Ermeland, Warmia)]]
|1656
|[[Hiệp ước Königsberg (1656)|Hiệp ước Königsberg]] (thái ấp của [[Đế quốc Thụy Điển|Thụy Điển]]), có chủ quyền từ năm 1656 ([[Hiệp ước Labiau]]), mất vào năm 1657 ([[Hiệp ước Wehlau-Bromberg]])
|-
|[[Lauenburg và Bütow Land]]
|1657
|[[Hiệp ước Bromberg]]
|-
|[[Draheim]]
|1657
|[[Hiệp ước Bromberg]]
|-
|[[Công quốc Magdeburg]]
|1680
|sự kế vị dựa trên quyền lợi của [[Hòa ước Westphalia]]
|}
''(Kotulla (2008), p. 261)''
==Tôn giáo và nhập cư==
==Hải quân và thuộc địa==
Hàng 79 ⟶ 169:
===Tham khảo===
{{
{{refbegin|30em}}
===Tiếng Anh===
*{{
* Clark, Christopher. ''Iron Kingdom: The Rise and Downfall of Prussia, 1600-1947'' (2008)
*{{
*[[Aleksander Gieysztor|Gieysztor, Aleksander]], [[Stefan Kieniewicz]], [[Emanuel Rostworowski]], [[Janusz Tazbir]], and [[Henryk Wereszycki]]. ''History of Poland''. PWN. Warsaw, 1979. {{ISBN|83-01-00392-8}}
*{{
* Gagliardo, John G. ''Germany under the Old Regime, 1600–1790'' (1991) [https://www.questia.com/PM.qst?a=o&d=54794651 online edition] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071127054209/https://www.questia.com/PM.qst?a=o&d=54794651 |date=2007-11-27 }}
* Holborn, Hajo. ''A History of Modern Germany.'' Vol 2: ''1648–1840'' (1962)
* Hughes, Michael. ''Early Modern Germany, 1477–1806'' (1992)
* [[Sheilagh Ogilvie|Ogilvie, Sheilagh]]. ''Germany: A New Social and Economic History, Vol. 1: 1450–1630''
*{{
*{{
===Tiếng Đức===
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
*{{
[[
[[Thể loại:Đức thế kỷ 17]]
[[Thể loại:Lịch sử cận đại Đức]]
Hàng 124 ⟶ 214:
[[Thể loại:Lịch sử Phổ]]
[[Thể loại:Liên minh cá nhân]]
[[Thể loại:Khởi đầu thập niên 1610 ở Đế quốc La Mã Thần thánh]]
[[Thể loại:Đế quốc La Mã Thần thánh thế kỷ 17]]
[[Thể loại:Cựu quốc gia quân chủ]]
[[Thể loại:Khởi đầu năm 1618 ở châu Âu]]
|